Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

Không độc ác với huấn lệnh của đảng " giết lầm hơn bỏ sót " , đã không phải là cộng sản !

1/ Giết người quá dễ !!! 

 



Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận - Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã lưu danh thơm trong lịch sử tư pháp Việt Nam nhờ bài “Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” đọc tại Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30-10-1956. Trong bản văn lịch sử này, ông mạnh mẽ phê phán rằng cuộc CCRĐ đã được thực hiện với phương châm sắt máu "thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch"; phương châm ấy đi ngược với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan"! Ông còn cho biết nhiều quy tắc pháp lý khác đã bị cuộc CCRĐ vi phạm, chẳng hạn: “Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng”; “Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá trình truy tố và xét xử; khi bị can ra trước tòa không được xiềng xích và không được dùng nhục hình”. Bất hạnh thay, chính bài phát biểu này đã chấm dứt sự nghiệp của ông và khiến ông bị Hồ Chí Minh cùng đảng Cộng sản đày đọa bản thân lẫn gia đình cho đến chết.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (và những nạn nhân ông bênh vực) đã phải lãnh số phận bi đát như thế chẳng có gì lạ. Bởi lẽ vốn coi con người chỉ thuần túy là vật chất, chẳng có hồn thiêng, bất cần Thượng Đế; coi đời sống xã hội là một cuộc chiến sinh tồn, đấu tranh giai cấp, yếu thua mạnh được; coi chính quyền đẻ ra từ nòng súng, trường tồn nhờ dối trá, củng cố nhờ bạo lực, nên chế độ cộng sản là tay vô địch trong việc thảm sát và các lãnh tụ cộng sản (từ Lênin, Stalin đến Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh…) là những quán quân về việc giết người, đặc biệt giết chính đồng bào của chúng… Chúng giết người qua các cuộc chiến tranh chúng gây ra, các cuộc thanh trừng, các cuộc cải cách (như cải cách ruộng đất), cách mạng (như cách mạng văn hóa), chỉnh đốn (như chỉnh quân chỉnh đảng) và qua một hệ thống tư pháp rất khoái án tử hình (Nga cộng, Tàu Cộng, Hàn cộng và Việt cộng là tiêu biểu). Thói hiếu sát của các lãnh tụ ấy dĩ nhiên cũng truyền lại cho đồ đệ và đồng đảng. Điều đó đã khiến máu của dân Việt đổ ra dưới chế độ và triều đại CS nhiều hơn dưới bất cứ chế độ và triều đại nào của sử Việt. Nay dù trong thời bình, máu đó vẫn tiếp tục đổ ra nơi những người đi xe không đội mũ bảo hiểm bị cảnh sát quật cho vỡ sọ, nơi những người bị triệu đến đồn vì một cớ vu vơ nào đó để rồi bị công an tra tấn đến tử vong, nơi những người can đảm đi đòi công lý để rồi bị đánh cho thương tật trên đường hay bị hành hạ tới chết trong lao ngục, nơi những người tù không may bị vu cáo hay cưỡng bức nhận tội sát nhân để rồi phải lãnh án tử. Và đó là hai trường hợp đang gây công phẫn dư luận, hai “phạm nhân” trẻ có tên Nguyễn Văn Chưởng (sinh năm 1983) và Hồ Duy Hải (sinh năm 1985), vốn bị tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm kết án tử hình từ lâu và chờ bị tiêm thuốc độc cuối năm nay (NVC) và đầu năm tới (HDH), sau từng ấy năm bản thân họ kêu oan trong tức tưởi lẫn khắc khoải và gia đình họ đi đòi công lý trong đau khổ lẫn tuyệt vọng. Tưởng cũng nên nhắc lại chút ít hai án oan này

Trước hết là vụ 1 thiếu tá công an ở Hải Phòng bị giết chết đêm 14-7-2007. Vụ án có 3 bị cáo gồm Vũ Đoàn Trung, ở Hải Phòng, nhận tội, 23 năm tù giam; Đỗ Văn Hoàng (bị Vũ Đoàn Trung tố cáo là đồng phạm), ở Hải Phòng, không nhận tội, tù chung thân; và Nguyễn Văn Chưởng, ở Hải Dương (bị Vũ Đoàn Trung tố cáo là chủ mưu), không nhận tội, tử hình! Có những bằng cớ cho thấy tháng 7 năm ấy, bị cáo Chưởng đang lao động ở Hải Phòng. Tuy nhiên, anh không có mặt tại đó vào thời điểm án mạng, vì thường về thăm nhà ở thôn 1, xã Bình Dân, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương mỗi cuối tuần. Nhiều người thân lẫn người dân trong thôn đã làm chứng về sự có mặt của anh tại nhà đêm 14-7-2007, xa phạm trường tới 40km. Thế nhưng lời khai của các nhân chứng đã bị cơ quan điều tra hoặc xuyên tạc (như mẹ bị cáo) hoặc dùng tra tấn để buộc rút lại (như vợ bị cáo hoặc nhiều người dân trong thôn). Rốt cuộc, các chứng nhân ấy không được ghi lời khai trong cáo trạng cũng chẳng được triệu tập đến tòa trong ngày xử.

Nhiều tình tiết cho thấy công an Hải Phòng (đứng đầu là Đỗ Hữu Ka, viên tướng khét tiếng từng dẫn quân tới bắn phá, cướp của và bắt bớ gia đình Đoàn Văn Vươn đầu năm 2013 tại Tiên Lãng) đã áp đặt tội cho Nguyễn Văn Chưởng ngay từ khi cuộc điều tra khởi sự. Đó là bắt giam em trai của Chưởng chính khi anh này đem nộp đơn của mẹ kêu oan cho con, sau đó tặng anh 2 năm tù vì “che giấu tội phạm”! Đó là tra tấn bị cáo Chưởng và nhiều chứng nhân hết sức dã man (xem thư Chưởng gởi gia đình ngày 07-04-2009) để hủy bằng cớ anh ngoại phạm. Đó là trong hồ sơ vụ án, giấy tờ giám định thương tích của Chưởng, lời khai của nhiều nhân chứng vắng bóng; chữ ký của em trai Chưởng bị giả mạo; lời khai của bị cáo Vũ Toàn Trung rất mâu thuẫn; yêu cầu của Chưởng xin được khôi phục các cuộc điện thoại của mình từ nhà tối ngày 14 và sáng ngày 15-07-2007 cũng bị lờ hẳn. Ngoài ra, cơ quan điều tra còn gây khó khăn và chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa (hơn 3 tháng so với qui định là 3 ngày) khiến nhiều cuộc thẩm vấn và nhiều biên bản không có luật sư tham dự (hay nếu có thì công an chẳng giới thiệu là luật sư). Đến ngày xét xử, tòa án không triệu tập nhân chứng nào cũng chẳng cho các bị cáo đối chất nhau. Chưởng kêu bị tra tấn thì Hội đồng xét xử bác bỏ vì cho rằng không có trong biên bản.
Nhận thấy vụ án bất công, gia đình thuê các luật sư bào chữa thì được họ trả lời rằng VN không có luật pháp mà chỉ có luật rừng của đám cầm quyền nên không thể cãi nổi. Gửi hàng ngàn đơn thư, thậm chí huyết thư đến Chủ tịch nước cũng vô vọng (x. RFA 3-12-2014). Hiện cả gia đình không làm đơn xin ân xá mà chỉ một mực kêu vô tội. Quá đỗi oan ức, bà mẹ còn cho biết sẽ nổ bom nếu Chưởng bị đem hành hình!

Thứ hai là vụ 2 nữ nhân viên bưu điện bị hãm hiếp, giết chết đoạn cướp của ngày 14-01-2008 ở bưu cục Cầu Voi, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An mà chẳng một ai chứng kiến. Khoảng 3 tháng sau, cơ quan công an điều tra bắt sinh viên Hồ Duy Hải, rồi cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên án tử cho anh về các tội “giết người”, “cướp tài sản”.

Tuy trong các bản khai, HDH có nhận tội, nhưng trước hai tòa và khi gặp thân nhân, anh đều cho biết đó là do đã bị tra tấn dã man quá thể. Trong phiên sơ thẩm ngày 28-11-2008, luật sư bào chữa Nguyễn Văn Đạt đã đưa ra đến 41 điểm sai phạm trong quá trình tố tụng và điều tra xét hỏi, như không vật chứng (dấu vân tay tại phạm trường chẳng phải của bị cáo, hung khí giết chết 2 nạn nhân là đồ đi mua ở chợ về sau…), cũng không nhân chứng xác nhận bị cáo có mặt tại phạm trường. Trong đơn đề nghị giám đốc thẩm (11-01-2012), luật sư Trần Hồng Phong cũng chỉ ra vô số điểm bậy bạ của hồ sơ (đặc biệt lời khai của nhiều nhân chứng đã bị sửa chữa không có chữ ký xác nhận của họ) để rồi nhận định: việc xét xử phiến diện, làm sai lệch hồ sơ, bất chấp kết quả giám định khoa học, bỏ qua tình tiết ngoại phạm của bị cáo, không phù hợp với thực tế khách quan vụ án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng… Ngoài ra, nhiều tờ báo còn cho thấy hung thủ có thể là một kẻ khác và đã được cơ quan điều tra lấy lời khai ngay khi vụ việc mới phát hiện. Thế nhưng các tình tiết ấy đã không nằm trong hồ sơ. Đó là chưa kể có mật lệnh cấm báo chí viết về vụ HDH !?!

Sau khi có bản án, bị cáo và gia đình không viết đơn xin ân xá mà chỉ liên tục kêu oan vô tội. Sáu năm qua, họ đã gửi đơn khắp nơi đề nghị giám đốc thẩm, nhưng chỉ được trả lời “đã đúng người đúng tội” hay “hết thẩm quyền xử lý vụ án”. Bà mẹ còn tìm đến Quốc hội, nhà riêng của các lãnh đạo cao cấp để kêu cứu nhưng vô vọng hoàn toàn.

Người ta tự hỏi tại sao nền tư pháp VN giết người dễ như thế và các cơ quan tư pháp đồng lòng với nhau dễ như vậy? Đó là vì tại VN chỉ có tam quyền phân công chứ không phân lập, tư pháp hoàn toàn nằm dưới sự chi phối của CS, có nhiệm vụ bảo đảm quyền lực của đảng chứ không bảo toàn công lý và bảo vệ nhân quyền, nên nhiều vụ án oan khốc đã xảy ra, xổ toẹt luật pháp, thách thức công luận, với những bức cung nhục hình, cáo trạng dối chứng cứ giả, âm mưu cá nhân và ý đồ tập thể... Ở hai vụ án trên, các nạn nhân bị kết tội chủ yếu chỉ bằng "lời khai" đẻ ra từ đấm đá roi đòn, không cần vật chứng, lý chứng, nhân chứng thuyết phục. Điều này dễ hiểu khi mà cơ quan điều tra luôn được quyền hành động bí mật, loại bỏ vai trò luật sư trong tiến trình thẩm vấn.
Việc công an nhất quyết cho bị cáo là thủ phạm dẫu hai bên chẳng có tư thù, điều ấy có thể lý giải bằng hai cách. Một là bị áp lực đạt chỉ tiêu phá án để bảo vệ thành tích của đơn vị, công an đã bắt đại một người nào đó để kết tội hay kết tội đại một người nào đó đã bắt. NVC và HDH không may trở nên vật tế thần. Hai là công an biết rõ thủ phạm, nhưng tên này lại có quyền hoặc có tiền và đã biết dùng lợi thế đó để khuynh đảo công lý. Đề nghị kết án tử nạn nhân nếu thành công thì vừa cứu kẻ được che chở vừa tránh hậu họa bị lỗi gây án sai (như vụ "tù oan Nguyễn Thanh Chấn"). Rồi khi hồ sơ điều tra chuyển lên viện kiểm sát, viện này hoặc miễn tố bị cáo vì không đủ chứng cớ, hoặc giúp công an bảo vệ thành tích phá án bằng cách khởi tố họ. Nên nhớ kiểm sát và công an là hai cơ quan cùng thuộc hệ thống tư pháp, dưới quyền chỉ đạo của cùng một đảng, nghĩa là có quan hệ "người nhà". Nên kiểm sát giúp công an bảo vệ thành tích là điều dễ hiểu. Khi hồ sơ được viện kiểm sát chuyển sang tòa án để xét xử, quan hệ "người nhà" giữa cả ba lại được vận dụng. Tòa án cũng hoặc xét không đủ yếu tố buộc tội nên yêu cầu công an điều tra lại, hoặc kết án theo hồ sơ gởi tới. Thực tế, kết quả tái điều tra thường không thay đổi, nên tòa án hay dựa trên hồ sơ công an để luận tội. Rồi cũng do sợ hậu quả bị khuyết điểm xử sai, mất thành tích công tác, tòa án sẽ đồng lõa với công an và kiểm sát kết án tử hình cho xong chuyện, chưa kể còn hưởng mối lợi từ thủ phạm thật đang có quyền hoặc có tiền.

Đấy là sự khốn nạn của tư pháp VN và cũng là sự khốn nạn cho dân tộc VN bao lâu còn có đảng Cộng sản độc tài toàn trị. Chế độ này (khắp thế giới) từng xây dựng ngai vàng trên cả trăm triệu bộ xương, nên sẽ tiếp tục thản nhiên chà đạp sinh mạng con người để tồn tại.
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 209 (15-12-2014)

Ban Biên Tập


                                              ==============================



2/ Tham nhũng vẫn ổn định hay leo thang ? (*)

 

 

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Trong buổi tọa đàm “Chung tay phòng, chống tham nhũng vì sự phát triển” (1) diễn ra ngày 9/12/2014, Tổng Thanh tra Chính phủ - ông Huỳnh Phong Tranh - nói rằng, trong 3 năm qua, chỉ số cảm nhận tham nhũng không tụt, không tăng có nghĩa là có tính ổn định. 

“Tham nhũng vẫn ổn định”. 

Rõ ràng là bầy sâu, lũ chuột có tham nhũng ra sao, thanh tra nhà nước mới kết luận như vậy. “Bác cháu ta có thể sai, nhưng” đảng viên CS không bao giờ sai, ví dụ như ông cựu Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền “không có gì sai” khi ông “làm chủ tập thể” cả một lô biệt thự thuộc hàng “siêu sang cực khủng” rải rác từ Hà Nội vào Bến Tre (2); có sai chăng là ở chỗ ông quan đầy tớ nhân dân thanh tra chính phủ vì tính cả nể, đã không từ chối đám thụ-ân nhân mang tặng “chút quà đáp lễ” mà bọn Tư Bản Miền Nam ác ôn bóc lột nhân dân trước ngày bị phỏng hai hòn “có nằm đó mà” không dám “mơ”.

“Tham nhũng vẫn ổn định”, rõ ràng là như thế chứ còn gì nữa. Ấy vậy mà ngay sau khi ông Thanh tra Chính phủ “nhả” (dấu hỏi) ra cái “ý” tốt làm “an dân” như thế, bọn phản động trong nước lẫn thế lực thù địch nước ngoài nhao nhao lên, rằng sao lại gọi là ổn định khi tham nhũng như rươi, như nấm, đang làm đảng điên đầu chẳng biết “xử lý” ra sao vì giệt sâu là giệt đảng, đập chuột là đập bình vì chuột với bình tuy hai mà một. 

Trao đổi với RFA, nhà báo Võ Văn Tạo nói: “Tôi cũng như nhiều người khác rất ngạc nhiên và không tin vào tai của mình nữa, tôi nghĩ tại sao lại nói là tham nhũng ổn định? Vì thông thường từ ổn định được dùng khi nói về những vấn đề tốt chứ không phải là những mặt tiêu cực. Tôi nghĩ phát biểu đó là sự chọc giận công luận, chọc giận những người tiến bộ và có tâm huyết đối với đất nước. Vậy mà ông ấy nói tình hình tham nhũng mấy năm qua vẫn ổn định thì không ai, kể cả dư luận trong nước cũng không thể hiểu nổi?”(3) 

Phát biểu về “Tham nhũng vẫn ổn định” của nhà báo Võ Văn Tạo trên đây “cũng đúng thôi”, nhưng không hợp với “văn hóa mới xhcn” của “con người mới xhcn” hôm nay mà điển hình là ông Thanh tra Chính phủ. “Trong 3 năm qua, chỉ số cảm nhận tham nhũng không tụt, không tăng có nghĩa là có tính ổn định.” Chỉ có con người mới văn hóa mới xhcn mới có khả năng “biến thái” được ý nghĩa của từ ngữ (ổn định) truyền thống như thế, thì tại sao ta lại không thể vận dụng một cách tài tình sáng tạo như bác Hồ đã vận dụng ánh sang chủ nghĩa mác với lê VN để đâm chém cắt xẻo đất nước và nhân dân ta, để làm một cuộc so sánh sự “tụt/tăng” của đám quan quyền CS tham nhũng với cơn “sồi/ sụt” con trăng nơi mình nữ giới. Một bên “ổn định”, một phía “điều hòa”; để từ đó Kách Mạng, “mõm chó” hay Lá Đa của chị em ta cùng nhau sánh bước tiến lên con đường hoàn tất CNXH, mặc “kệ con bà nó” biết đến hết thế kỷ này đã xây dựng xong chưa và, nếu xong thì mặt mày nó ra sao, que sờ ra sờ ra (que sera, sera). 

Trở lại với sự “ổn định” của “nền” tham nhũng nước nhà... XHCNCC. Lời tuyên bố của ông Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh mà người mổ nghe được hình như phong thanh là... vậy, quả thật là chuẩn xác và đúng với quy trình tuyên bố và hành động của đảng trưởng Bú Lí. Rằng thì là đập chuột nhưng phải bảo vệ bình. Vì Chuột với Bình tuy hai mà một; Chuột là Bình, Bình là Chuột; có Chuột mới có Bình, có Bình mới có Chuột. Chuột có ổn định, Bình mới yên thân và tồn tại. “Chó chết hết chuyện”, Chuột chết, Bình cũng chết luôn.
Tuyên bố “Tham nhũng vẫn ổn định” là đúng với quy trình nói và làm của đảng “ta”. Nói như Tổng Bú Lí, “không được đụng đến bình” và làm như Côn An “hốt” trưởng Ban Nội Chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh đi Mỹ “trị” bệnh “gân cổ trướng” đã dám đòi “hốt, hốt sạch, hốt liền” tham nhũng là “nguyên khí” của đảng CS đang quang vinh trên xương máu đồng bào, thân phận bị cắt xẻo của tổ quốc Việt Nam . 

Bây giờ thì đã rõ mặt, ai thắng ai trong cuộc chiến... “Ổn định Tham Nhũng”
                                      ===============================

3/ Anh em nhà Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc - Bá Kiến thời hiện đại ! 

 

 


Chân Dung Quyền Lực - Nhắc đến nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo, dường như người Việt Nam ai cũng ám ảnh, phẫn nộ trước những thủ đoạn bất lương, sử dụng quyền lực cưỡng đoạt sự sống, tiền bạc của cải của những người lương thiện, thấp cổ bé họng. Trong xã hội phong kiến, khi hệ thống pháp luật chưa dân chủ thì những bất công ấy có thể hiểu được nhưng cuộc sống ngày nay khi luật pháp đã được xác lập nghiêm minh, nhưng những kẻ Bá Kiến thời hiện đại vẫn len lỏi trong hệ thống chính trị Việt Nam. Đáng nguy hại là, không chỉ một cá nhân sử dụng quyền lực chính trị của mình để hà ép dân, trả thù cá nhân mà tư tưởng hút máu được nối truyền qua các thế hệ. Từ anh trai, đến em trai và dọn đường cho cả thế hệ con cháu.
Với người dân lớn tuổi hiền lành, chân chất, yêu nước tỉnh Quảng Nam dù ở tuổi thập cổ lai hy vẫn chưa bao giờ quên cái tên Nguyễn Quốc Dũng (ít người biết ông Dũng là anh ruột của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc), nhất là thủ đoạn mà ông Dũng đã dùng trong thời gian đương nhiệm chức vụ Viện trưởng VKSND Thành phố Đà Nẵng.

Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
& ông anh trai Nguyễn Quốc Dũng
Mười năm về trước (năm 2004), được sự chống lưng của ông Nguyễn Xuân Phúc (lúc đó là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam), ông Nguyễn Quốc Dũng đã móc nối cùng nhóm lợi ích được ông Nguyễn Xuân Phúc bảo kê tại VKSND Tối cáo để phê chuẩn khởi tố, bắt giam Trung tá Hoàng Minh Công (điều tra viên Phòng CSĐT Công an Đà Nẵng). Gán ghép tội danh “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 285 BLHS), Trung tá Công đã bị hành hạ, đối xử tồi tệ suốt thời gian chờ xét xử. 
Phiên tòa lần 1 diễn ra theo đúng ý đồ của ông Nguyễn Quốc Dũng, nhưng trong phiên tòa lần thứ 2, hàng loạt các tình tiết đã được phanh phui. Hội đồng Xét xử đã kết luận Trung tá Hoàng Minh Công không phạm tội và được thả tự do. Ngay tại phiên tòa, Trung tá Hoàng Minh Công đã tố cáo Viện trưởng VKSND Tp. Đà Nẵng Nguyễn Quốc Dũng đã thông đồng với một số cán bộ Cục điều tra, Viện KSND Tối cao để trả thù, khởi tố vụ án trái luật. Nguyên nhân vào năm 1999, trong vụ án Hoàng Minh Thông, Trung tá Hoàng Minh Công đã 9 lần đề xuất bắt giữ Lê Tiến Dũng là Trưởng ban quản lý đầu tư dự án Nhà máy xi măng Hải Vân, nhưng đều bị ông Nguyễn Quốc Dũng bác bỏ. Sau đó Bộ Công an đã đồng ý quyết định khởi tố, được Viện phó Viện KSND TP Đà Nẵng phê chuẩn và Lê Tiến Dũng đã phải thụ án (Sau vụ án này, Trung tá Hoàng Minh Công đã nhiều lần viết đơn tố cáo với các cấp thẩm quyền về việc ông Nguyễn Quốc Dũng bao che tội phạm). Tuy nhiên, TAND Tp. Đà Nẵng đã bỏ qua lời tố cáo này trong bản kết luận phiên tòa.
  
Giữa phiên tòa ngày 18/8, bị cáo - Trung tá Hoàng Minh Công 
tố cáo Viện KSNDTC, Viện trưởng VKS Đà Nẵng Nguyễn Quốc Dũng 
cố tình trả thù, khởi tố vụ án trái luật.
Sự việc không dừng lại ở đó, đáng lẽ ra khi bị vạch mặt trước dân với những hành xử không xứng với chiếc ghế đang giữ, ông Nguyễn Quốc Dũng nên tìm cách chuộc lỗi. Nhưng không, không những ông ta không từ bỏ thói cậy quyền làm chuyện trái luân thường, đạo lý, mà còn hành động ngông cuồng hơn. Vì lợi ích kinh tế, trục lợi cho bản thân, được sự chống lưng của ông Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Quốc Dũng không ngần ngại ký quyết định truy tố Thiếu tướng Công an Trần Văn Thanh (nguyên Chánh thanh tra Bộ Công an) với tội danh gán ghép: “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân” (Điều 258, BLHS). Thiếu tướng Trần Văn Thanh là nạn nhân của sự trả thù tư pháp phi nhân chưa từng thấy trong lịch sử thế giới hiện đại khi ông bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng điệu ra nơi xét xử khi đang hôn mê, bị đẩy vào phòng xử với đầy đủ dây nhợ và máy trợ thở oxygen, để bị nghe tố cáo và tuyên án. Tuy nhiên, sau nhiều lần xét xử, Thiếu tướng Công an Trần Văn Thanh được tuyên vô tội vì không có bất kỳ dấu hiệu, bằng chứng nào phạm tội như phía VKSND tối cao tố cáo.
Tướng Trần Văn Thanh đang hôn mê bị đẩy ra tòa trên băng ca.


Khi vụ án này khuấy động dư luận, người dân quan tâm đến đều biết, nguyên do ông Trần Văn Thanh bị khởi tố vì ông Nguyễn Quốc Dũng trả thù cá nhân. 

Từ năm 2000, liên quan đến lợi ích trong vụ “Rút ruột Sông Hàn”, ông Nguyễn Quốc Dũng đã ký các công văn gửi Viện KSND Tối cao, nội dung các công văn đề cập đến việc ông Nguyễn Bá Thanh (khi đó là Chủ tịch UBND Tp. Đà Nẵng) đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông 4,4 tỉ đồng trong các công trình xây dựng Cầu Sông Hàn và đường Bắc Nam ở Đà Nẵng. Xét thấy sự việc không như những gì trong công văn ông Nguyễn Quốc Dũng trình bày, nên ông Trần Văn Thanh phản đối, không khởi tố. Cũng từ đây mà ông Nguyễn Quốc Dũng thù vặt cá nhân, nuôi dã tâm hãm hại ông Trần Văn Thanh cho bằng được. Nhưng may mắn, công lý còn tồn tại, nên ông Thanh không phải thân bại, danh liệt dưới thủ đoạn của anh em nhà Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Tưởng rằng khi về hưu, ông Nguyễn Quốc Dũng sẽ không còn cơ hội hành động ngông cuồng nữa. Tuy nhiên, thế lực của ông không hề bị “đứt rễ” khi còn đó em trai là Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Với quyền lực mà Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có trong tay, vợ chồng ông Nguyễn Quốc Dũng đã được “giới thiệu” làm Tổng Đại lý tại Đà Nẵng cho Nhà máy Xi măng Thăng Long (Quảng Ninh). Từ đó, vợ chồng ông Dũng, bà Liễu đã mở Công ty TNHH Nguyễn Quốc Dũng (198 Trần Phú, Q. Hải Châu, Tp. Đà Nẵng) để kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng, thầu tổng hợp. Không chỉ thò bàn tay nhám nhúa vơ vét lợi ích kinh tế lúc về hưu, mà ông Nguyễn Quốc Dũng còn tham vọng lo cho hậu thế bằng cách cướp các suất học bổng nước ngoài cho hai cô con gái thông qua quyền lực của em trai mình (Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc). Bà Liễu, vợ của ông Nguyễn Quốc Dũng còn dạy con gái rằng: “Chú Phúc giàu lắm, bọn doanh nghiệp đi theo cho tiền nhiều lắm, nếu chú Phúc cho thì cứ nhận, đừng ra vẻ làm gì thiệt thân!”. Kết quả là, nhờ có cái mác “chú Phúc” mà 2 cô con gái ông Nguyễn Quốc Dũng được cung phụng như tiểu thư, “du học” không tốn một đồng xu ở ngoại quốc.
Đại gia đình Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc 
nâng ly đoàn kết cùng vơ vét của cải xã hội, 
phá hoại nền kinh tế Việt Nam ?
    Cha, chú làm quan thì cháu sẽ làm gì khi có trong tay lĩnh kĩnh bằng cấp ngoại quốc? Tương lai ngồi mát ăn bát vàng của hậu thế sẽ lại được mở ra và thế là ông Nguyễn Quốc Dũng và Nguyễn Xuân Phúc sẽ không sợ truyền thống lạm quyền, vơ vét , ăn bẩn của gia đình, dòng họ bị đoạn mạch ?!...

Với tất cả thủ đoạn thâm độc và tàn bạo nhất, anh em ông Nguyễn Quốc Dũng và Nguyễn Xuân Phúc liệu quá thoát khỏi con mắt của nhân dân, bàn tay của pháp luật? và hậu quả cuối cùng cũng sẽ không khác gì Bá Kiến ngày xưa.
Nhân vật Bá Kiến cuối cùng cũng có số phận cũng bạc bẽo. Cái chết của bá Kiến, cho chúng ta nhận ra quy luật của cuộc đời: những kẻ vấy máu người phải đền tội theo luật nhân quả đã đành, nhưng những kẻ ném đá dấu tay như Bá Kiến cũng không tránh khỏi quy luật “ác giả ác báo”. Càng mưu mô nham hiểm thì càng nhận được cái kết cục bi đát và bất ngờ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét