Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Accepting death - for the kind of life !? Chấp nhận chết - cho đồng loại sống !?

 Accepting death - for the kind of life !?

1/ Chấp nhận chết - cho đồng loại sống !?


Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) Khi muôn loài đều tha thiết sống, vậy thì tại sao anh ta dùng súng bắn 5 quan chức đảng viên CSVN phụ trách “giải phóng mặt bằng đất đai” rồi tự sát!?

14h ngày 11/9, công dân Đặng Ngọc Viết (42 tuổi), thường trú tại số nhà 11, ngõ 345, tổ 48, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình đã cầm súng xông thẳng vào văn phòng Trung tâm Phát triển Quỹ đất Thành phố tìm gặp Phó Giám Đốc rồi hô lớn nhằm từng người có mặt trong phòng để bắn, sau đó về quê nhà ở xã Trà Giang, huyện Kiến Xương (tỉnh Thái Bình) dùng súng tự sát...

5 cán bộ trung tâm quản lý đất tỉnh Thái Bình bị bắn gồm:

- Vũ Ngọc Dũng, sinh năm 1962 - Phó giám đốc, bị bắn vào đầu.

- Phạm Thị Lan Anh, sinh năm 1977 - Phó giám đốc, (bị bắn hụt).

- Nguyễn Thanh Dương, sinh năm 1975 - Cán bộ Trung tâm, bị bắn vào mắt - Vũ Công Cương, sinh năm 1990 - Cán bộ Trung tâm, bị bắn vào đầu.

- Bùi Đức Xuân, sinh năm 1975 - Cán bộ Trung tâm, bị bắn vào đầu.

Vũ Ngọc Dũng và Nguyễn Thanh Dương phải chuyển cấp cứu ở bệnh viện Việt Đức, Hà Nội do vết thương quá nặng. Vũ Ngọc Dũng đã chết.

(Nguồn: Đài phát Thanh và Truyền hình tỉnh Thái Bình)

Văn phòng Trung tâm Phát triển Quỹ đất – Nơi nổ súng

Điều gì đọng lại, phía sau sự việc? Khi biết rằng qua cuộc họp báo của UBND tỉnh sau tiếng súng nổ cho thấy xuất phát từ việc trước đó Trung tâm Phát triển quỹ đất TP. Thái Bình giải phóng mặt bằng tại khu ruộng của gia đình anh Viết. Trong quá trình thực hiện bồi thường, anh Viết không đồng ý nhận đất tái định cư và bất đồng quan điểm khi chuyển sang giá trị bồi thường bằng tiền với cán bộ trung tâm quản lý đất tỉnh Thái Bình.

Họp báo tại UBND/ TP Thái Bình sau khi sự việc xảy ra 

Thái Bình là nơi đã từng xảy ra các vụ khiếu kiện, khiếu nại, biểu tình gay gắt về đất đai trong những thập niên 1980 và 1990 với đỉnh cao là vào mùa hè năm 1997 khi hàng ngàn người dân bao vây cơ quan công quyền cấp xã.

Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó phải thành lập tổ công tác để giải quyết tình hình này, vì vậy có thể hiểu sự việc “nổ súng” nói trên là nguyên nhân (có tiền lệ) từ bức xúc tranh chấp “giá trị” đất đai giữa người dân và “lãnh đạo nhà nước” địa phương.

Khỏi phải nhắc lại - Ai cũng biết (kể cả thế giới) - CS/XHCN/VN và CSTQ là 2 quốc gia cá biệt duy nhất trên thế giới mà người dân đối đầu tranh chấp đất đai nhiều, gay gắt và phức tạp nhất với hệ thống cai trị độc tài toàn trị, bởi “nhà nước CSVN” áp dụng các thứ luật lệ liên quan đến đất đai một cách độc đoán lạc hậu cốt đem đến những đặc quyền đặc lợi phát sinh từ đất đai cho bầy đàn lãnh đạo cai trị, không mang tính phổ quát quang minh chính trực như tuyệt đối đa phần cộng đồng các quốc gia trên thế giới, những thứ luật lệ đất đai XHCN như bịp bợm lừa gạt người dân.

Không ai hiểu nổi cái định đề của CSVN phô trương: “đất đai là sở hữu (làm chủ) của toàn dân, do nhà nước quản lý”. Bị đảng CS lãnh đạo, bị nhà nước XHCN quản lý thì không hiểu người dân làm chủ bằng cách nào, khi kẻ “gián tiếp” là nhà nước (một nhóm người) được thuê quản lý lại thật sự có toàn quyền định đoạt mãnh đất ấy chứ không phải là người chủ “trực tiếp” (95 triệu, toàn dân)! Nội hàm “hoa mỹ” của định đề ấy hoàn toàn mang tính áp đặt che mắt công luận để “lừa bịp” toàn dân.

Và như lời Phật Thích Ca: “Có ba thứ trên cõi đời này không thể che giấu thiên hạ được lâu, đó là: mặt trời, mặt trăng và “sự thật”. Một danh ngôn khác của Abraham Lincoln (cựu TT Mỹ) cũng nói lên: “Anh có thể lừa dối một số người trong mọi lúc, và lừa dối mọi người trong vài lúc, nhưng anh không thể mãi lừa dối tất cả mọi người”.

Sau gần 2/3 thế kỷ bị “lừa gạt” bằng mồ hôi nước mắt lẫn máu xương và khi chế độ CS/XHCN thi nhau sụp đổ khắp thế giới, hiện tại chỉ còn là hắt hiu như ánh tà dương cuối ngày thì bản chất “thật” của nó đã phơi bày với các hành vi của các quan chức CS từ TW đền địa phương hối hả “vơ vét” mồ hôi nước mắt nhân dân mà “đất đai” là một, trước khi chế độ CSVN suy tàn, phải nói thẳng, để thủ đắc quyền lợi những kẻ gọi là “lãnh đạo nhân dân ” không từ nan những hành vi “dã man, hoang dại” gấp nhiều lần chế độ thực dân trước kia mà toàn dân cũng như các “đảng viên CS trung thực” cùng chứng kiến suốt hai thập niên qua, họ (CSVN) không ngại ngần dùng ngay chính quân đội LL vũ trang do nhân dân nuôi dưỡng để bảo vệ quốc gia, quay lại đàn áp chống lại chính nhân dân mình chỉ vì muốn toa rập quyền lợi nhóm cùng nhau “ngồi mát ăn bát vàng” từ đất đai có được do mồ hôi công sức, luật pháp bảo vệ quyền sở hữu của người dân (Tiên Lãng-Hải Phòng) và nhiều nơi khác, khắp cả nước mà hình ảnh cưỡng chế như “nội chiến” diễn ra liên tục.

Và như bị dồn đến chân tường. Khi sự “Im lặng trước bạo ngược chỉ khuyến khích, giúp ích thêm cho kẻ bạo ngược.” thay cho ôn hòa từ những tiếng nói nhẫn nhục chịu đựng là lòng can đảm cụ thể hóa tiếp theo bằng tiếng súng, tiếng bom, tự tạo của Đoàn Văn Vươn dù biết đối đầu với cái ác đã “tập đoàn hóa” là không cân sức. Tuy nhiên như lời chị Phạm Thị Hiền nói với BBC rằng: Chị “không ân hận” về những gì xảy ra và gia đình chị “chấp nhận mất, để xã hội được”. (Chồng chị là ông Đoàn Văn Quí - người cầm vũ khí kháng cự lực lực lượng cưỡng chế bị kết án cùng anh ruột mình đang bị tù giam cùng ông Đoàn Văn Vươn).

Có lẽ nào một phần từ “cái được” ấy của gia đình ông Đoàn Văn Vươn như gieo mầm cho xã hội, là chất xúc tác lên men cho tiếng súng của Đặng Ngọc Viết (42 tuổi) nói trên, vì ruộng đất tư liệu sản xuất nguồn sống của gia đình mình bị o ép bất công mà phải nổ lên tại trung tâm quản lý đất đai / UBND/Tỉnh Thái Bình?

“Nhân chi sơ tính bản thiện” Con người vốn dĩ có bản ngã,tư duy nhân cách hiền hòa thông minh hơn loài dã thú. 

“Vậy thì tại sao Đặng Ngọc Viết dùng súng bắn 5 quan chức đảng viên CSVN phụ trách “giải phóng mặt bằng đất đai” rồi tự sát!?- Khi muôn loài đều tha thiết sống??”.

Câu hỏi chắc không khó lắm để các ngài “tiến sĩ xây dựng đảng” trong bộ “cai trị” CSVN định hình chính xác cho một câu trả lời – Hay không dám can đảm mạnh dạn trả lời, bỏ ngỏ để đó cho những người dân thấp cổ bé miệng bị triệt tiêu cái “quyền mưu cầu hạnh phúc” (tuyên ngôn độc lập – HCM) trên ruộng đồng của chính mình để họ phải cuồng tâm nghĩ đến “tiếng súng” như cứu cánh mà mục đích của nó là phải “hy sinh” một số ít người này (không tốt lắm) luôn cả bản thân mình cho một số người khác (đông và tốt hơn nhiều lần) được sống trong môi trường công bằng và quang minh chính trực!.

Suy cho cùng, giết người không hề nằm trong phạm trù đạo đức - Tuy nhiên Đặng Ngọc Viết đi vào cõi hư vô nhưng tiếng súng của anh ta vẫn vang vọng cho hôm nay và ngàn sau biết rằng đó là cái giá đắt nhất có thể nhận về nếu không vì quyền lợi sự sống của nhân dân mà bán “Liêm Sĩ và Nhân Cách” - Hãy “tiên trách kỷ - Đừng hậu trách nhân”!.


                                           =================================

2/ Truyền thông và cuộc chiến giải trừ gian dối


Bảo Giang (Danlambao) “Không thể nhân danh quỷ để mà trừ quỷ”. Trái lại, chỉ có Công Lý, chỉ có Sự thật mới giải trừ được gian dối. Theo đó chúng ta cần mạnh dạn hơn, nghiêm khắc và can đảm hơn với chính mình. Hãy dùng tiếng nói của công lý, của nhân tâm dân tộc, của tiền nhân, của nhân tâm con người mà tạo nên nền móng vững chắc cho những hoạt động giải trừ cái bạo tàn, gian dối của đảng và nhà nước cộng sản tại Việt Nam. Sẽ không, không bao giờ còn dùng bất cứ những ngôn từ nào của HCM như là một cái thuẫn, giúp chúng ta chống lại tập đoàn này. Trái lại, phải loại trừ trường hợp của HCM ra khỏi ý thức tư tưởng của Việt Nam. Việc làm này, khỏi đầu có thể lạ lẫm và hơi khó khăn. Tuy nhiên, đó là việc cần phải khởi đầu...

*

Vào năm 2006, khi còn là phó chủ nhiệm quốc hội “CHXHCNVC”, ông Trần quốc Thuận đã công khai lên tiếng, đánh giá, xác minh về các bản chất trong sinh hoạt của chế độ cộng sản là:“Ngày nay người ta phải nói dối nhau mà sống... Nói dối lâu ngày thành thói quen, thói quen dùng lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là rất mất đạo đức, nhưng đó lại là đạo đức của cách mạng! (của cộng sản). Sau đó một khoảng thời gian, một con cưng khác của chế độ, mang quân hàm đại tá, cũng là đại biểu của quốc hội, là phó chủ tịch của hội nhà văn CS, ông Nguyễn Khải, trước khi xuôi tay về với thiên đàng Mác Lê, trong “Đi tìm cái tôi đã mất” đã viết là: “Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ và không hề run sợ... và người ta không dám hỏi lại những điều được nghe ấy đúng sai ra sao?

Thật ra thì chẳng cần đến việc hai nhân vật này nói ra, viết ra như thế người ta mới biết đến việc cộng sản chủ trương xây dựng một xã hội dựa trên nền tảng gian dối. Trái lại, hầu như tất cả mọi người đã biết rất rõ, một trong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước cộng sản là phải tạo ra và bảo vệ gian dối. Nếu CS không tạo ra và bảo vệ được sự gian dối, cộng sản sẽ bị hủy diệt. Tuy thế, lời công bố của hai nhân vật này cũng giúp đưa ra vài chỉ dẫn.

Một mặt, họ xác mình việc gian dối, hay nói dối tràn lan trong cuộc sống của người Việt Nam ngày nay không phải là sự gian dối mang tính tự phát của người dân. Nhưng nó là một thành quả xuất sắc bắt nguồn từ chủ trương của đảng và nhà nước CS trong tiến trình đào tạo và huấn luyện các đoàn đảng viên, cán bộ của đảng và nhà nước. Để từ đó, những người này đem vào xã hội. Dưới áp lực khủng bố quá lớn và sự sợ hãi, người ta không dám hỏi lại, hay tìm hiểu cái xuất xứ của những câu nói từ đảng, từ nhà nước, từ cán bộ là đúng hay sai. Trái lại, chỉ còn biết tuân theo và lập lại như thế mà sống. Kết quả, gian dối từng bước hủy diệt tận căn nhân thiện của con người trong xã hội, trong tôn giáo và được thay thế vào đó là thứ “đạo đức cách mạng”, là sự đồng bộ trong gian dối và làm nô lệ cho gian dối. Nên những ai tranh đấu cho công lý, cho sự thật thì đều có thể bị quy kết là chống nhà nước CHXHCN/VN với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền CS. Một thể chế mà không đáng được tồn tại thêm một giờ, một phút nào nữa!.

Mặt khác, khi phấn khởi hay ta thán về thành quả bất hủ của nhà nước CS, cà hai vị này đã đưa ra được những lời cảnh tỉnh, gởi cho những ai còn thao thức với vận mệnh của dân tộc, của đất nước biết là: Nếu còn cộng sản, chúng ta không bao giờ thoát ra khỏi được sự gian dối lấp đè lên gian dối. Trái lại, càng lúc càng bị CS đưa từng thế hệ này tới thế hệ khác lún sâu vào cuộc sinh hoạt trong dối trá do họ chủ trương. Kết quả, tiền đồ của đất nước không còn, tương lai của dân tộc bị hủy diệt. Bởi vì, có những sự thật như chúng ta đã bị Tàu đô hộ bao nhiêu năm nay rồi, có thể từ ngày 02-9-1945, mà người ta vẫn dối trá bảo không. Không một ai dám bảo là có. Tệ hơn, CS còn rêu rao cuộc nô lệ ấy là tình hữu nghị! Và họ bảo vệ cái tình hữu nghị ấy bằng mọi giá! Theo đó, những ai còn nghĩ đến tiền đồ của tổ quốc, tương lai của dân tộc thì không thể khoanh tay trước cái chủ trương vong bản của CS.

Lời cảnh báo ấy, không phải là không có lý lẽ. Bởi vì, trổi vượt lên trên cái bản ngã nói dối mà sống của từng cá nhân. Sự dối trá của chế độ đã trở thành một khuôn mẫu để làm tiêu chuẩn cho lãnh đạo. Khuôn mẫu này được chứng minh rõ nét nhất là ở cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng Miền Nam, chống Đế Quốc Mỹ xâm lược”! Khẩu hiệu to hơn những cái mồm to nhất. Kết quả, nó chỉ là một cuộc lừa dối trắng trợn nhất, vĩ đại nhất trong chủ trương của cộng sản đã thực hiện. Để ở đó, có hàng triệu người chết mất xác đến nay vẫn chưa thể tìm ra. Những nghĩa trang liệt sỹ thì đầy những bia mộ, có tên nhưng không có cốt. Có hàng vạn thương phế binh của cả hai miền, hàng triệu gia đình ly tan. Mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, anh chị em mất nhau chỉ để đánh đổi lấy một kết luận đanh thép của đảng CS do Lê Duẫn công bố:“trận chiến này, ta đánh là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”. Và còn tồi tệ hơn thế, trong cuộc gặp gỡ Mao trạch Đông vào năm 1970. Lê Duẫn đã tự hào kể công, kể thành tích của một tên nô lệ với chủ là: “Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch”! Có còn ai tìm ra thứ ngôn ngữ kể công nào bóng bẩy hơn thế nữa? Theo đó, đất nước ta có bị tập đoàn CS / HCM áp đặt vào vòng nô lệ của Tàu thì cũng không có gì lạ. Có lạ là chúng ta không nhìn ra được những gian dối của chúng! Và lạ là không cùng nhau tìm phương cách thoát ra khỏi nanh vuốt của CS mà thôi.

Trở lại “chuyện đánh Mỹ cứu nước” dù đây có là một cao điểm của phản trắc và lửa dối thì nó cũng đã thuộc về quá khứ. Có hối cũng bất cập. Có nói cũng bằng không. Nhưng hiện nay, sự gian dối, lừa đảo của nhà nước CS vẫn phủ lấp trên tất cả mọi sinh hoạt trong xã hội. Từ gia đình đến học đường, thậm chí trong cả lĩnh vực thuộc về tôn giáo, không có một nơi nào mà sự dối trá của đảng và nhà nước cộng sản không luồn lách vào. Mà một trong những lừa dối vĩ đại nhất, hào nhoáng nhất, có khả năng phù lấp, hủy hoại tiền đồ của đất nước, tiêu diệt tương lai của dân tộc là trường hợp Hồ chí Minh, một con cờ do cộng sản tạo ra?

Hồ chí Minh là ai? Ông ta là người Tàu hay là người Việt Nam? Nguyễn ái Quốc có phải là Hồ chí Minh, hay ông ta đã chết vì bệnh lao phổi sau khi ra khỏi nhà tù vào năm 1931? Có phải dưới sự chỉ đạo của CS/QT, Hồ tập Chương đã đóng vai Hồ chí Minh từ 1932 và xâm nhập vào cơ chế trong đảng CSĐD?

Sự thật ra sao, chưa rõ thực hư. Nhưng nghi án này càng lúc càng lớn, làm cho người Việt Nam vuốt mặt không kịp. Trong khi đó, tập đoàn đảng và nhà nước CHXHCNVN vẫn tiếp tục ca bài phường chèo, ra rả ngày đêm xưng tụng, đánh bóng HCM là một loại cha già dân tộc (không biết là dân tộc nào, Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan chăng?). Rồi xếp cho Y có địa vị, chỗ ngồi cao hơn cả quốc tổ Hùng Vương, cao hơn các anh hùng, cứu tinh của dân tộc như Đức Hưng Đạo Vương, Đức Lê thái Tổ, Đức Quang Trung Nguyễn Huệ... Đã thế, còn ngày đêm thúc giục mọi người, mọi giới phải học tập theo gương của HCM, mà không hề có lấy một lời làm rõ, nêu lên những chứng cứ khả dĩ, đủ xác định và chứng minh HCM là Nguyễn ái Quốc, người làng Kim Liên. Cũng không hề đưa ra những chứng minh thực tế về hoạt động của Nguyễn ái Quốc từ 1932 đến 1942 để phản bác những lý luận trong cuốn sách kia. Cũng không mời những nhà khoa học thực nghiệm đến làm DNA cho HCM để xác nhận nguồn gốc lý lịch thật sự của cái xác giả ở Ba Đình kia là Nguyễn ái Quốc hay Hồ tập Chương?

Theo đó, tôi giả sử, nếu Hồ chí Minh là người Tàu đúng như những gì mà tác giả Hồ tuấn Hùng, trình bày trong cuốn sách “Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh” (Hồ Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008. Và theo ông Phạm quế Dương, “cuốn sách chủ yếu nói về Nguyễn Ái Quốc. Sau vụ án Hương Cảng, 1931 cụ sang Liên xô nhưng bị lao phổi và chết ở Liên xô từ năm 1932. Sau đó, Quốc tế Cộng sản phân công Hồ Tập Chương, người Đài Loan cùng hoạt động với cụ Nguyễn Ái Quốc thay cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng ở Việt Nam. Ông Hồ Tập Chương lấy tên là Hồ Chí Minh”thì chúng ta, những người còn sống đây, rồi đến những thế hệ nối tiếp sau đây sẽ phải ăn nói làm sao? Lịch sử nghìn năm chống phương bắc sẽ phải viết lại thế nào? Rồi căn chòi nào, mảnh đất rừng nào sẽ còn được phép lưu danh những Anh Hùng nước Việt Nam đây? Tôi cho rằng, câu hỏi này chỉ có thể là nỗi tủi nhục cho người Việt Nam thôi? Về phía đảng và nhà nước Việt cộng thì chắc đã có sẵn kế sách rồi. Bịp được đến bao giờ thì cứ bịp. Không bịp được nữa thì bỏ chạy sang Tàu, sang Tây là hết chuyện!

Như thế, giả sử ấy không phải là một bi quan, cũng không đơn thuần là một diều đáng lo, đáng quan ngại. Trái lại, nó có thể là một thảm họa cho đất nước và dân tộc Việt Nam nếu như nó tiếp tục được kéo dài. Theo đó, nếu chúng ta, thế hệ hôm nay muốn đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng nhân bản, làm nô lệ cho gian dối, làm nô lệ cho chủ nghĩa vong bản cộng sản. Hoặc giả, muốn tái tạo lại một đất nước có tình người, có cuộc sống lương tri chân thật, có văn hóa, có nhân bản, có cội nguồn dân tộc thì chúng ta chỉ có một con đường duy nhất là cùng bạch hóa nghi vấn này. Bạch hóa bằng cách:

1. Tất cả mọi người, không trừ ai, hãy mạnh mẽ đem tiếng nói của công lý vào truyền thông. Chuyển tải sự thật đến mọi nơi, mọi chốn, để giải phóng người dân ra khỏi mọi gian trá từ cuộc tuyền truyền bất lương của đảng và nhà nước cộng sản.

Trước hết, nhờ tính năng động của tuổi trẻ, vận động mọi người, mọi giới cùng tham gia vào phong trào làm DNA, tìm hiểu sự thật về lý lịch của Hồ chí Minh. Hãy nhắn tin cho cả nước biết những hoài nghi của dân ta về Hồ chí Minh. Hãy nói chuyện với bằng hữu, người thân về những chứng cứ hiện có, gởi đi những tin nhắn qua các diện thoại cầm tay, để mọi người cùng đi tìm sự thật, Hồ chí Minh là ai? Ông ta là người Việt Nam hay người Tàu?

Tôi tin rằng, dù chỉ là vài mẩu chuyện nhỏ do nhiều người chứng kiến và kể lại cách xử thế của Hồ chí Minh với mẹ và chị gái của ông ta, nếu được chúng ta chuyển tải rộng ra cả nước, đến với mọi người ở mọi nơi, mọi chốn. Nó không còn là câu chuyện nhỏ bé nữa. Trái lại nó có khả năng tác động cực mạnh trong lòng người và tạo ra một sức mạnh vô bờ, có đủ khả năng đập tan sự gian dối. Chuyện là, vào năm 1957, Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không đến thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng Thị Loan dù ngôi mộ không xa địa điểm Hồ chí Minh đến thăm là bao. Trước đó, năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, Hồ chí Minh cũng tránh mặt, không dám gặp. Tại sao lại thế? Nếu Hồ chí Minh là con bà Hoàng thị Loan thì có lẽ nào Y lại không giữ phận làm con đến bên mộ, khóc òa, tạ tội bất hiếu không thể phụng dưỡng cha mẹ. Rồi thắp nhang cho mẹ, báo đáp ơn đức sinh thành? Nếu là chị em ruột tại sao HCM không dám gặp bà Nguyễn thị Thanh?

Chỉ có một lý giải là: Hồ chí Minh là Hồ tập Chương người tàu, không phải là Nguyễn ái Quốc con của bà Hoàng thị Loan, nên Y không thể nào đến thắp nhang “ báo đáp ơn sinh thành” cho cụ Hoàng thị Loan. Nhưng tại sao không gặp lại người chị duy nhất của mình sau bao năm xa cách? Sợ phải nhận họ hàng, làm chị em với bà nhà quê hay sợ bị phát giác ra sự giả mạo là em của bà chăng? Nên nhớ, có tật thì giật mình thôi, chứ hình dáng của Hồ chí Minh có đổi khác đi, tiếng nói có khác xưa thì bà Thanh cũng không thể nhìn ra ngay được. Như thế, câu trả lời vắn gọn là: Hai người này cũng chẳng phải là chị em với nhau. Gặp chẳng tỏ bày được tình thân, còn có thể lộ tẩy trong những câu chuyện của gia đình khi xưa. Nên Hồ tập Chương, không gặp, không đốt nhang chẳng có gì là lạ. Có lạ là về phía nhà nước VC vẫn giữ im lặng. Im lặng cho đến chết? Tuy nhiên, khi không dám công khai có ý kiến trước dư luận, cũng không làm thực nghiệm DNA về HCM để trả lời, phản chứng, thì cũng chính là lúc họ xác nhận sự thật Hồ chí Minh không phải là Nguyễn ái Quốc.

Kế đến, vận động các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu sử ở trong nước, hải ngoại, các nhà văn, nhà báo hãy cứu nước, cứu dân bằng những bài viết của họ. Người thì làm thực nghiệm với chứng cứ của khoa học, kẻ khác bằng phương pháp sử liệu. Nếu không thể thực nghiệm trực tiếp trên cái xác của Hồ chí Minh với thân nhân ruột thịt, đề nghị làm cách gián tiếp từ Nguyễn tất Trung với những thân nhân ruột thịt này. Mặt khác, cũng có thể vận động GS Hồ tuấn Hùng làm DNA với người chú (Hồ chí Minh) để tìm ra những điểm tương đồng có thể chứng minh là có liên hệ máu huyết hay không? Dĩ nhiên, những thử nghiệm gián tiếp không thể đưa ra được một kết luận vững chắc. Nhưng dù sao thì nó cũng cho ra những chứng cứ để làm sáng tỏ thêm sự liên hệ giữa những người này.

Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc là. Việc xét nghiệm DNA dù là gián tiếp cũng khó khả thi. Bởi lẽ, với một quá trình và chủ trương ” tráo rồng đổi phượng” thì dĩ nhiên, tro cốt của Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đã bị cộng sản tiêu hủy toàn bộ từ lâu rồi. Đến ngay cái xác của Hồ tập Chương trong lớp áo Hồ chí Minh cũng chỉ là cái xác giả. Riêng cái cốt thật của Hồ tập Chương dù mới chết 1969 thì tập đoàn CS cũng chẳng còn để lại một dấu vết nhỏ nào. Và có thể chính Liên Sô là người đã thực hiện hai vụ phi tang này. Phần cá nhân, Hồ Tập Chương vì phải bảo vệ bí mật của chính mình và tổ chức của CSQT, nên khi còn ngồi ghế chủ tịch nhà nước, Y có thể đã ra lệnh cho thủ hạ tiêu hủy hoàn toàn hài cốt của những vị có liên hệ huyết thống vói Nguyễn ái Quốc như cụ Hoàng thi Loan, bà Nguyễn thị Thanh hay ông Nguyễn Sinh Khiêm rồi. Riêng phần mộ của ông Nguyễn sinh Sắc, có thể chôn ở miền nam. Nhưng trong những năm chiến tranh, ai dám bảo đảm rằng Hồ tập Chương đã không ra lệnh cho cán bộ, du kích trên danh nghĩa là tìm kiếm bảo vệ. Nhưng thực ra là tiêu hủy toàn bộ dấu vết của ông và thay vào đó là những cái hài cốt chẳng có một tý liên hệ nào đến dòng họ Nguyễn sinh Sắc? Theo đó, việc DNA tưởng là dễ và chính xác nhất thì lại không khả thi.

Theo đó, sự việc chỉ còn trông chờ các nhà sử học đứng đắn. Nhờ họ, qua các cuộc nghiên cứu sử liệu từ các thư viện mật của Nga, Trung quốc, hy vọng tìm ra được những tài liệu lịch sử khả tín về cái chết của Nguyễn ái Quốc vào năm 1932. Hay những sinh hoạt của Hồ tập Chương trong thời bí mật từ 1932-42 ở Liên sô, trước khi Y được giới thiệu với nhóm Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp với cái tên Hồ chí Minh rồi cùng vào sinh hoạt trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí hội của cụ Hồ Học Lãm. Nguyễn ái Quốc khi đến Pháp và sang Liên Sô rồi về làm chủ tịch đảng CSVN chắc cũng còn để lại nhiều giấy tờ ghi nhận về chiều cao, kích thước, hình dạng. Đây cũng là những chứng liệu hữu ích cho cuộc đi tìm sự thật.

Về phía các nhà văn nhà báo, bloggers, cũng có thể làm xét nghiệm DNA Hồ chí Minh qua các tác phẩm của ông ta, để tìm xem trong đó có hơi hám của Việt Nam hay không. Bởi lẽ, văn là người. Thơ là hơi thở. Không một người làm thơ, viết văn nào phải xa quê hương mà trong thơ văn của người đó không thao thức, không nhắc đến quê hương hay những người thân, không nhắc đến những đồng ngô nương sắn, thành thị, nơi mình đã đi qua. Nhờ những chứng từ đó, chúng ta có thể có được một đáp số trung thực hơn về lý lịch của Hồ chí Minh. Dù kết quả thế nào, phải hay là không, thì điều này cũng giúp dân ta và đất nước ta có được một chỗ đứng nghiêm chỉnh hơn. Dứt khoát, không thể trông chờ CS làm việc này cho chúng ta.

2. Vận động toàn dân tham gia vào cuộc đảnh đổ gian dối, làm chuyển hóa và xóa bỏ chế độ vong bản cộng sản để đưa đất nước vào cuộc sống trong hòa bình ổn định, trong công lý, nhân quyền, nhân ái.

Trong khi chờ có được những bằng chứng khả tín trong tay, Hồ chí Minh là Hồ tập Chương là người Tàu theo họ Mật La, Đài Loan, hay là người Việt Nam để công bố cho toàn dân. Chúng ta phải vận động mọi người, mọi giới, không trừ ai, kể các các đoàn đảng viên cộng sản, hãy vì danh dự của tổ quốc, vì tiền đồ của dân tộc, cùng với toàn dân tham gia vào cuộc đánh đổ gian dối, dành lại Độc Lập cho Tổ Quốc. Đem lại Tự Do cho cho con người. Vận động mọi người cùng nắm tay nhau, biến sợ hãi, nhút nhát, vô cảm thành một phong trào lớn mạnh. Cương quyết giải trừ trường hợp Hồ chí Minh ra khỏi dòng lịch sử Việt Nam. Giải phóng đất nước ra khỏi cuộc đánh tráo dơ bẩn và gian dối của cộng sản.

Đây là công việc trường kỳ, nó đòi hỏi chúng ta tốn phí nhiều thới gian. Hơn thế, còn đòi buộc chúng ta phải có thái độ dứt khoát và cương quyết nữa. Từ nhiều năm qua, vì nhiều lý do. Phần vì e dè, phần vì sợ hãi, phần vì né trách nên những cuộc tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Công Lý cho Việt Nam dưới nhiều hình thức đều được mở hàng bằng những mớ ngôn từ vay mượn của Hồ chí Minh. “ bác nói thế này, bác nói thế kia”. Coi những lời ấy như một thứ thuẫn che đậy cho chủ kiến và hành động của mình. Điều này không hoàn toàn sai. Tuy nhiên, đã đến lúc chúng ta phải chọn lấy một hình thức tích cực mới. Bởi vì:

Theo Kinh Thánh: “Không thể nhân danh quỷ để mà trừ quỷ”. Trái lại, chỉ có Công Lý, chỉ có Sự thật mới giải trừ được gian dối. Theo đó chúng ta cần mạnh dạn hơn, nghiêm khắc và can đảm hơn với chính mình. Hãy dùng tiếng nói của công lý, của nhân tâm dân tộc, của tiền nhân, của nhân tâm con người mà tạo nên nền móng vững chắc cho những hoạt động giải trừ cái bạo tàn, gian dối của đảng và nhà nước cộng sản tại Việt Nam. Sẽ không, không bao giờ còn dùng bất cứ những ngôn từ nào của HCM như là một cái thuẫn, giúp chúng ta chống lại tập đoàn này. Trái lại, phải loại trừ trường hợp của HCM ra khỏi ý thức tư tưởng của Việt Nam. Việc làm này, khỏi đầu có thể lạ lẫm và hơi khó khăn. Tuy nhiên, đó là việc cần phải khởi đầu.

Có làm được như thế, chúng ta mới xứng đáng và hãnh diện mình là nòi giống của Tiên Long, là thần tử của Quốc Tổ Hùng Vương, là con cháu của các anh hùng dân tộc, của Hai Bà Trưng, của Ngô vương Quyền, Hưng Đạo Vương, Lê Thái Tổ, Quang Trung... mới xứng danh là những hậu duệ của Trần bình Trọng, Lý thường Kiệt... hét vào mặt quân thù rằng: “Thà làm quỷ nước nam còn hơn làm vương đất bắc.”

Có giải trừ được gian dối, đem trả sự thật về cho nghi án của dân tộc thì con cháu ta mai sau mới còn có chỗ đứng riêng trên mảnh đất mang tên Việt Nam.

9-2013

                             ======================


3/ Đơn kêu cứu của bà Nguyễn Thị Kim Lan về trường hợp của chồng là ông Ngô Hào


"...Trước khi bị tạm giam, chồng tôi vẫn đi đứng, nói chuyện và nghe rõ nhưng từ ngày bị tam giam tới nay, chồng tôi đã không còn đi được, dự phiên tòa phải có 2 công an kèm 2 bên ẵm lên ngồi trên ghế, nghe không rõ tòa hỏi gì, nhiều lần chồng tôi không biết tòa có đang hỏi hay không ngoài ra chồng tôi không đủ sức nói để trả lời câu hỏi của tòa. Trong khi đó, thành phần tham dự phiên tòa chỉ có tôi và 2 con với chồng tôi là Ngô Hào kèm theo trên 30 công an mặc sắc phục đứng cạnh chưa kể lực lượng mắc thường phục..."

* * * * * * * * *

Kính gởi:

- Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon
- Tổng Thống Hoa Kỳ Obama và Chính Phủ Các Nước Dân Chủ Trên Thế Giới
- Chủ Tịch Thượng Viện và Hạ Nghị Viện của Hoa Kỳ và các Nước
- Ủy Hội Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ
- Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam
- Các Tổ Chức Nhân Quyền Trên Thế Giới
- Các Cơ Quan Truyền Thông Thế Giới
- Các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Hải Ngoại
- Ban Trị Sự Giáo hội PGHH Trung Ương tại Hải Ngoại
- Các cơ quan thông tấn trong và ngoài nước, đài RFA, VOA, BBC, RFI...

Tôi tên NGUYỄN THỊ KIM LAN, sinh năm 1957,

- hiện ngụ tại 17/6 Nguyễn Trãi, phường 5, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Việt Nam;

- điện thoại: +84-122-660-6052; e-mail: trung.hieu.dao2010@gmail.com .

Hôm nay tôi viết đơn này mong các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước, quý đoàn thể yêu chuộng tự do ngôn luận về trường hợp chồng tôi, ông Ngô Hào.

Hôm qua, tức là ngày 11/9/2013, chồng tôi bị đưa ra tòa với tội danh “lật đổ chình quyền nhân dân” vì những hoạt động “Ngô Hào đã nhiều lần tàng trữ, viết bài, phát tán và chuyển tiếp nhiều tài liệu có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc chế độ, nói xấu lãnh tụ và thực hiện “Cách mạng hoa nhài” theo hình thức bất bạo động.” Trước khi bị tạm giam, chồng tôi vẫn đi đứng, nói chuyện và nghe rõ nhưng từ ngày bị tam giam tới nay, chồng tôi đã không còn đi được, dự phiên tòa phải có 2 công an kèm 2 bên ẵm lên ngồi trên ghế, nghe không rõ tòa hỏi gì, nhiều lần chồng tôi không biết tòa có đang hỏi hay không ngoài ra chồng tôi không đủ sức nói để trả lời câu hỏi của tòa. Trong khi đó, thành phần tham dự phiên tòa chỉ có tôi và 2 con với chồng tôi là Ngô Hào kèm theo trên 30 công an mặc sắc phục đứng cạnh chưa kể lực lượng mắc thường phục.

Trong thời gian diễn ra phiên tòa gia đình cũng như chồng tôi không hề được biện hộ. Tòa án và viện kiếm sát áp đặt, mỗi khi cất tiếng biện hộ liền bị cấm. Kết thúc phiên tòa chồng tôi chỉ nói 1 câu "tôi không làm gì sai, chỉ sai ở chỗ không được pháp luật thừa nhận!" 

Tôi nhận thấy việc làm của chồng tôi không có gì sai trái, chồng tôi chỉ lên tiếng giúp đỡ những trường hợp bị áp bức như trường hợp Ông Nguyễn Văn Lía, thành viên giáo hội Phật Giáo Hòa Hỏa, nhờ đưa 14 vị tù nhân lương tâm của Phật Giáo Hoà Hảo vào danh sách nhân quyền Liên Hợp Quốc, vậy mà chế độ lại vu khống cho chồng tôi là bị đặt, ngụy tạo nhằm nói xấu chế độ để mà lật đổ “chính quyền nhân dân”, kết án chồng tôi 15 năm và 5 năm quản chế trong khi chồng tôi năm nay 65 tuổi.

Hôm nay tôi viết đơn này mong các cơ quan đoàn thể trong và ngoài nước lên tiếng can thiệp, trợ giúp pháp lý để giúp đòi lại những quyền cơ bản của một công dân trong một đất nước “ độc lập – tự do”. 

Phú Yên, ngày 12 tháng 9 năm 2013

Nguyễn Thị Kim Lan.
                                           =================================

4/ Nhân cách bị lùn !


Nguyên Anh (Danlambao) - Việt Nam, một đất nước hình chữ S dưới sự sáng lập và điều hành của chủ tịch M râu đã tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc đến cái thiên đường trong mơ, một cái thiên đường mà người CS tưởng tượng ra không còn cảnh người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, một xã hội văn minh, một xã hội hơn bọn tư bản chán vạn lần (PCT. NTDZ).

Người dân được sự tuyên truyền, cổ xúy của nhà cầm quyền đã hăng hái lao động hăng say hoặc xả thân không mệt mỏi, đóng góp đủ thứ công sức cho nước nhà nhưng họ cứ ngóng trông dài cả cổ hoài mà cái thiên đường mù sao không thấy?

Từ đời ông nội theo bác chệt Chương đi tìm bọn cường hào địa chủ đấu tố cho đến chết, đến đời ông bố phơi xương trắng Trường Sơn thực hiện giấc mộng vĩ cuồng của bác, cho đến đời con thì... cái thiên đường mù đến thật chứ chẳng đùa!

Duy chỉ có điều tại cái thiên đường đó hoàn toàn không có ai có danh dự, liêm sỉ nhân cách và lòng tự trọng!

Tất cả đều được sống vinh quang như ánh hào quang của đảng, nào là biệt thự Phú Mỹ Hưng, Valley nơi đáng sống, nào là Mercerdes, Rollroy, Cadillac, nào là vàng miếng SJC, USD chất đầy từ trong tủ cho đến các ngân hàng trong và ngoài nước.

Không phải thiên đường là gì khi dân gian truyền tụng:

- Vai mang túi bạc kè kè, nói láo nói lếu chúng nghe rầm rầm (!)

- Tiền là Tiên là Phật, là sức bật trẻ thơ là ước mơ người lớn mà lị!

Và đám đại gia được vinh danh triệu phú đô la ngày hôm nay còn ai ngoài đội ngũ xuất thân từ Hoàng thân cộng sản? (Hoàng Thanh Trúc - DLB)

Tuy nhiên dù đã là đại gia, triệu phú đô la nhưng nhân cách của họ lùn đi tỷ lệ nghịch với số tài sản kếch xù đã có nhờ quyền hành có được từ: Hy sinh đời bố củng cố đời con.

Người ta có thể dễ dàng trông thấy tầng lớp tư bản đỏ ngày nay chỉ là các tên bợ đỡ chế độ, dựa hơi để được đặc quyền đặc lợi trong một xã hội không minh bạch.

Nếu tại các quốc gia văn minh, muốn trở thành giàu có thì cá nhân các người đó phải nổ lực học tập có địa vị trong xã hội hoặc kinh doanh và lao động cật lực mới có thể sở hữu số tiền hàng triệu đô la.

Tuy nhiên tại VN điều đó khỏi! Nhỏ không học lớn lên cũng làm đại úy (nối gót cha ông!) Và các đại gia đỏ hôm nay lại hợm hĩnh khoe khoang sự giàu sang bất chính của mình với các quốc gia trong khu vực như các bài báo của bọn bồi bút vinh danh hôm nay.

Và họ cũng lãng quên cái đồng tiền của mình có được là bất hợp lý với đại bộ phận người dân, chiến sỹ lực lượng vũ trang và các thành phần lao động khác.

Nhưng có hề gì? Ở một chế độ mà từ người khai sinh ra nó đã lùn về nhân cách thì có việc gì phải mắc cỡ cơ chứ?

Chỉ khéo vẽ sự...

Vì chúng ta có một tầng lớp lãnh đạo lùn ưu việt cho nên phải phát triển, học tập và phát huy cái ưu việt của chúng ta cho hơn hẳn bọn đế quốc tư bản chứ.

Thế chả nhẽ nhà nước luôn khuyến khích chúng ta học mỗi ngày với cái mệnh đề: sống, học tập theo phong cách đạo đức của bác là không đúng sự thật?

Do đó chúng ta có những tấm gương người tốt việc tốt (dựa theo tiêu chuẩn lùn) để mà sáng tạo, làm theo: 

- Lãnh tụ M râu: đạo văn, sát thủ giết 1.700.000 người dân (thời báo Balan);

- TT Phạm văn Đồng bán đất đai cha ông gầy dựng 1958;

- Lê Duẩn với cải tạo tập trung đồng bào chiến bại của mình;

- Lê khả Phiêu, Nguyễn văn Linh, Võ văn Kiệt với hiệp ước Thành Đô (Đặng chí Hùng-DLB);

- Nguyễn minh Triết với: VN & Cuba thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới và sau đó thành một cò đĩ khi đang là một nguyên thủ quốc gia lại đi giới thiệu đàn bà con gái của dân tộc mình với các chính khách quốc tế một cách trơ trẻn;

- Nguyễn phú Trọng với độ nhân cách lùn cao khi vác cái mặt mo rao giảng chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng HCM vĩ đại trong khi người ta đã quăng vào thùng rác;

- Nguyễn tấn Dũng với các nghị định bịt miệng dân cầm viết để tha hồ làm mưa làm gió;

- (Cựu) Thống đốc Ngân hàng nhà nước VN Lê Đức Thúy và anh chàng đại tá an ninh xơi cả chục triệu đô la hối lộ của công ty Úc để cho phép in tiền Polymer;

- Bộ trưởng bộ Y với nhiều người nằm chung 1 giường bệnh và mạng người rẽ như con giun con dế; 

- Bộ trưởng chủ nhiệm ủy ban sác tộc Giàng Seo Phừ mập như con heo khi trẻ em miền núi ăn cơm với côn trùng và không có áo ấm;

- Bộ trưởng bộ năng lượng với thủy điện bằng đất, xe tông nhẹ đã vỡ toác;

- Bộ trưởng bộ Giáo dục với chỉ tiêu phủ kín tiến sỹ giấy cho nhà cầm quyền;
- Bộ trưởng bộ Côn An với slogan không có đánh cho có, có đánh cho chừa (!);

- Bộ trưởng tài chính với giá vàng cao hơn thế giới nhiều năm liền;
- Ủy ban vật giá với giá xăng, dầu, điện, nước lên như phi mã được lý giải là theo giá thế giới nhưng khi nó xuống thì im re, tranh thủ đếm tiền mà quên chuyện tiền lương èo uột của người lao động;
- Hiệu trưởng Sầm Đức Xương môi giới học trò của mình thành gái bán hoa...

Và còn nhiều nữa các tên nhân cách hơi bị lùn trong cái thiên đàng xã nghĩa mà có thể thấy nhan nhản ở các bộ ngành từ trung ương cho tới địa phương. Tuy nhiên, có một điều vô cùng ưu việt khi đã là cư dân của thiên đường mù, các khái niệm từ chức, cách chức mặc nhiên không có, cùng lắm chỉ hoán chuyển vị trí công tác hay về hưu non để mà hưởng phước (!)

Những khuôn mặt lãnh đạo còn như vậy thì tại sao chúng ta lại ngại liêm sỉ, tự trọng mà không tranh thủ bốc hốt để mau chóng vinh thân phì gia?

Vậy thì có lý do gì mà phải mắc cỡ với cụm từ tiền sạch tiền bẩn cơ chứ?

Tiền nào cũng là tiền, xài được sất...

Và chúng ta hãy cứ tự hào Việt Nam vì là triệu phú đô la, đó là một niềm tự hào vô cùng chính đáng cũng như đại gia già hết xí quách vùng biển mua cái giường 6 tỷ hú hí cùng cô vợ nhí (không biết nên cơm cháo gì không?) và tự huyễn hoặc mình hãnh diện khi cư dân VN còn khối kẻ lắm tiền!


Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

HỒ CHÍ MINH & NHỮNG ĐỨA CON RƠI : Mang Họ Nông Nhưng Tông Họ Hồ

Những sự thật cần phải biết (phần 20) - Nông Đức Mạnh - Tội ác của một đứa con rơi



I. Mang họ Nông nhưng là tông họ Hồ:

Nông Đức Mạnh được xem là một trong những Tổng bí thư dốt nát nhất trong số các lãnh đạo dốt nát cộng sản. Theo cộng sản thì Mạnh xuất phát từ một gia đình dân tộc Bắc Kạn. Với trình độ y tờ của mình liệu một kẻ chỉ biết bô bô ở mọi hội nghị một câu quen thuộc “Một người tốt làm cho một nhà tốt, một nhà tốt làm cho một phường tốt v.v... và v.v…” thì liệu có thể leo lên chức vị to nhất của đảng độc tài tại Việt Nam hay không? Câu hỏi này cũng không khó trả lời vì thực chất mẹ của Mạnh là người dân tộc ít học còn Cha của Mạnh mới là kẻ quyết định con đường công danh của Mạnh.

Nông Đức Mạnh và bàn tay “chém gió”

Theo thông tin chính thức từ nhà nước cộng sản thì lý lịch của Nông Đức Mạnh hết sức bất minh, không ghi rõ Mạnh có bố tên gì, mẹ tên gì mà chỉ ghi chung chung “sinh trong một gia đình nông dân, dân tộc Tày”. Xin xem toàn văn tiểu sử tóm tắt của Mạnh trên website của đại sứ quán Việt Nam tại Mông cổ lấy thông tin từ cổng thông tin chính phủ CHXHCNVN để thấy điều này:

“TIỂU SỬ TÓM TẮT Đồng chí NÔNG ĐỨC MẠNH

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Sinh ngày 11/9/1940 tại xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn, xuất thân trong gia đình nông dân, dân tộc Tày. 

Tóm tắt quá trình công tác 

1958 -1961: Học viên Trường trung cấp nông lâm Trung ương, Hà Nội. 

1962 - 1963: Công nhân lâm nghiệp, Kỹ thuật viên điều tra rừng Ty Lâm nghiệp Bắc Cạn. 

Vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1963. 

1963-1965: Đội phó đội khai thác gỗ Bạch Thông. 

1966-1971: Sinh viên Học viện Lâm nghiệp Lê-nin-grát, Liên Xô. 

1972-1973: Phó Ban Thanh tra, Ty Lâm nghiệp tỉnh Bác Thái. 

1973-1974: Giám đốc Lâm trường Phú Lương, Bắc Thái. 

1974-1976: Học viên Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. 

1976-1980: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Thái, Phó Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái kiêm Chủ nhiệm Công ty Xây dựng Lâm nghiệp rồi Trưởng ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái. 

1980-1983: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bấc Thái, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Thái. 

1984-10/1986: Phó bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Thái, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Thái. 

11/1986-2/1989: Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Thái. 

12/1986: Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nan khóa VI. 

3/1989: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 

8/1989: Trưởng ban Dân tộc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 

1l/1989: Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội 

6/1991: Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 

9/1992: Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX. 

6/1996: Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII. 9/1997: Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X. 

1/1998: Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII. 

4/2001: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

4/2006: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, được tái bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Nguồn: Website Đảng Cộng sản Việt Nam (1)

Qua tiểu sử của Nông Đức Mạnh, chúng ta thấy điều gì? Đó là tại sao một kẻ có gốc gác là một người mới tốt nghiệp trung cấp nông nghiệp mà có thể “tiến nhanh, tiến mạnh” lên đến chức Chủ tịch quốc hội rồi Tổng bí thư nhanh đến thế? Và đây là sự thật về lý lịch của Nông Đức Mạnh - điều đã khiến Mạnh trở nên quyền thế nhanh chóng trong chế độ cộng sản.

Theo như Nông Đức Mạnh khẳng định, cha mẹ ông ta là ông Nông Văn Lại và bà Hoàng Thị Nhị. Nông Đức Mạnh còn nói thêm hàng năm tháng ba âm lịch vào dịp tết thanh minh luôn về quê để tảo mộ cha mẹ (hai người đều mất sớm), và ông còn có em trai, em gái ở quê (tuy nhiên không ai xác nhận điều này mà chỉ là do Nông Đức Mạnh nói). Nông Đức Mạnh luôn bác bỏ tin đồn rằng ông là con của Hồ Chí Minh, và đã trả lời "Ở Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ" khi được báo chí hỏi về điều đó. Tạp chí Thế Giới Mới có ghi trong một chú thích rằng mẹ đẻ của Nông Đức Mạnh là Nông Thị Trưng. Điều đó có đúng không? Xin trả lời là rất ĐÚNG vì Nông Đức Mạnh là một con rơi trong vô vàn con rơi của Hồ Chí Minh.

Khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác, lại được cất chức làm Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng... Hồ Chí Minh yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. ‘Chú Thu’ và‘Cháu Trưng’ cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giả Trần KhuêThép Mới...

Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang 48) rằng sau 20 năm ngày rời Pác Bó, ông Hồ trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, ông Hồ tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm, người mà trước đây ông Hồ đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật... Tác giả còn nhấn mạnh một trong các cháu đã trở thành ‘thanh niên tuấn tú’ góp phần xây dựng đất nước.

Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo...” Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.

Để chứng minh cho mối quan hệ của bà Ngác với Hồ Chí Minh mà kết quả của nó là Nông Đức Mạnh tôi xin được trình bày những tài liệu sau đây.

Thứ nhất, trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker - một người thiên tả (thích cộng sản), trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP” (Vietnamese Communist Party- 14).

Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: “Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho's servant after the latter's return to Vietnam during the early 1940s...”

Tạm Dịch: “Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.”

Chúng ta cũng biết Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942. Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, website của “Đảng CSVN” đã xóa hoàn toàn tiểu sử của ông Nông Đức Mạnh trước đó ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị”.

Vấn đề đặt ra là tại sao khi có cuốn sách của Duiker và Time phỏng vấn Nông Đức Mạnh thì tiểu sử phải bị xóa bỏ trong khi Mạnh là người đứng đầu đảng, việc minh bạch cha mẹ mình trên website của chính phủ có gì sai? Đó chính là việc minh chứng cho Mạnh chính là con của bà Ngác và Hồ Chí Minh bị cố tình giấu giếm đi.

Hồ Chí Minh và Nông Thị Trưng (Ngác) – mẹ Nông Đức Mạnh

Thứ hai, cũng liên quan đến sự việc Hồ có con với bà Ngác và có con trai, tác giả người Nga,Mikhail Vasaep trong cuốn sách được in năm 1986 tại Liên Xô có tên “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” - một học giả, nhà nghiên cứu thuộc phân viện lịch sử đảng cộng sản Liên Xô cũ trong trang 372 “Cũng có những nguồn tin đáng tin cậy từ KGB cho biết có một người con trai của Hồ Chí Minh với người phụ nữ tên Nông Thị Trưng được nuôi nấng bởi một gia đình người dân tộc thiểu số tại Cao Bằng...”

Như vậy có thể khẳng định thêm thông tin Hồ Chí Minh có con với bà Nông Thi Trưng (Ngác) là hoàn toàn có thật. Và người con đó chính là Nông Đức Mạnh với những thông tin được nêu ra từ W. Duiker.

Thứ ba, khi đề cập đến vấn đề quan hệ với bà Nông Thị Trưng thì tác giả Constatin Kostadinov đã giới thiệu ở trên trong cuốn “Những người con của lãnh tụ” xuất bản năm 1984 tại Ba Lan có viết tại trang 92 “Thật ra trong một nghiên cứu cho thấy chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một mà có những hai con trai nhưng đến nay chưa biết số phận chính trị có giống như người con mang tên Nguyễn Tất Trung hay không...”

Chúng ta nên nhớ vào thời điểm cuốn sách của ông Kostadinov ấn hành thì Nông Đức Mạnh chưa có những dấu ấn trên chính trường (năm 1984) nên nhận xét của ông Kostadinov rõ ràng là hợp lý. Nhưng cũng cho thấy về đứa con của Hồ Chí Minh không chỉ một mà là 2 con trai.Một là Nguyễn Tất Trung còn một chính là Nông Đức Mạnh.

Hồ Chí Minh trong một bữa ăn tại Pắc bó – Cao Bằng

Thứ tư, chính tác giả Hà Cẩn trong một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang tại trang 135 “Bi kịch tình ái của Hồ Chủ Tịch không chỉ dừng lại ở những bà vợ không được thừa nhận mà còn kể cả 2 người con trai của Chủ Tịch....”

Đến đây ta có thể khẳng định tác giả Hà Cẩn đã ám chỉ về Nguyễn Tất Trung và Nông Đức Mạnh là con của ông Hồ Chí Minh. Nhưng dù cho có là ai đi nữa thì tác giả cũng khẳng định Hồ Chí Minh có nhiều con và có nhiều vợ không được thừa nhận. Và trong đó có Nông Đức Mạnh.

Thứ năm, hãy đọc bài viết của tác giả Lê Văn Tâm như sau: 

“Nông Thị Trưng (6 tháng 12 năm 1920 - 26 tháng 1 năm 2003) là một phụ nữ hoạt động cách mạng, theo Việt Minh trong phong trào chống Pháp ở Việt Nam giữa thế kỷ 20. Bà từng giữ chức Chánh án Tòa án nhân dân Tỉnh Cao Bằng. 

Bà có tên thật là Nông Thị Bày, có tài liệu ghi Nông Thị Ngát, quê ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Theo hồi ký của thiếu tướng Lê Quảng Ba, Nông Thị Trưng là đội viên du kích trẻ tuổi nhất trong đội du kích đầu tiên của tỉnh Cao Bằng, do Lê Thiết Hùng chỉ huy.Trong vòng tám tháng vào năm 1941-1942, bà đã làm giao liên cho "Già Thu", bí danh của Hồ Chí Minh lúc đó. Tên Trưng của bà do "Già Thu" đặt, có ý muốn bà noi gương Trưng Trắc, Trưng Nhị. Cùng với các đảng viên và nhân dân Hà Quảng có điều kiện ở gần Hồ Chí Minh, bà đã được ông trực tiếp dạy văn hóa.Bà được Hồ Chí Minh kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 25 tháng 12 năm 1941. Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên của Cao Bằng sớm tham gia cách mạng, và trở thành một trong những cán bộ, đảng viên cốt cán của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tờ báo Xuân Phụ Nữ năm Đinh Sửu 1997 xuất bản trong nước một bài viết có tựa đề "Cô Học Trò Nhỏ của Bác Hồ" được tác giả Thiên Lý viết theo lời kể của chính Nông Thị Trưng có đoạn: "Tháng 7 năm 1941, được tin (chính quyền) châu Hà Quảng đưa lính cơ tới bắt, ngay đêm ấy tôi trốn ra rừng, rồi được Châu ủy đem qua Bình Mãng (Trung Quốc) lánh nạn tại nhà một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một hôm đồng chí Lê Quảng Ba và Vũ Anh đến đón tôi từ Trung Quốc về Pắc Bó gặp Bác.

Về Pắc Bó đã nửa đêm, anh Đại Lâm người giữ trạm đầu nguồn đưa ngay chúng tôi đi gặp "ông Ké". Lội ngược suối càng đi nước càng sâu, khi đến thác thứ ba, anh Đại Lâm thổi sáo, từ trên thác có thang tre thả xuống. Trèo thang lên, thấy một cái lán dựng ngay trên bờ suối. Trong lán có ông cụ ngồi đọc sách. Tôi chắp tay "Cháu chào cụ ạ". Ông cụ nhìn lên hai mắt rất sáng, ân cần bảo: "Cháu đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện. " Tôi nhìn xuống sàn, thấy toàn cây to bằng bắp chân. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi. Cụ tỉ mỉ hỏi gia cảnh, rồi khuyên tôi: "Từ nay cháu đã có một gia đình lớn là gia đình cách mạng, đừng luyến tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu cặm cụi làm ăn cũng không đủ để nộp sưu thuế đâu. Mình lấy lại được nước rồi từng gia đình sẽ được đàng hoàng. Từ nay ai hỏi thì cháu nói mình là cháu chú Thu, tên Trưng". Bác đặt tên ấy là muốn tôi noi theo gương bà Trưng."

Nông Thị Trưng đã học tập lý luận cách mạng cùng "Già Thu" trong khoảng 8 tháng.

"Từ đấy tôi ở lại lán anh Đại Lâm, mỗi ngày vào lán của Bác một giờ để học tập. Bác dạy cho tôi từ chuyện thế giới, chuyện cộng sản chủ nghĩa đến cả những cách ứng xử thường ngày như "Đừng làm một việc gì có thể khiến dân mất lòng tin. Mượn một cái kim, một con dao, một buổi là phải đem trả. Trong ba lô nếu có màn, phải để ở ngoài cửa, hỏi xem chủ nhà có bằng lòng mới đem vào. Cháu là nữ, trước bàn thờ có cái giường để các cụ ngồi ăn cỗ, cháu không được ngồi...". Tám tháng được Bác chỉ dạy tôi học được hơn cả mấy chục năm học lý luận tập trung sau này".

Đoạn hồi ký trên còn được đăng tại Tạp chí Công nghiệp

Khi biết Nông Thị Trưng là người ham học, hàng ngày lấy than và que để viết chữ và vẽ hình, Hồ Chí Minh đã gửi cho bà một số vở, bút viết, với bài thơ mà sau này được đưa vào sách giáo khoa Việt Nam:

Vở này ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau cháu giúp nước non nhà

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nguyên thì bài thơ được viết năm 1944 và có tên "Tặng cháu Nông Thị Trưng".

Hồ Chí Minh cũng tặng Nông Thị Trưng quyển Binh pháp Tôn Tử.

Gia đình

Theo tạp chí Thế Giới Mới, Nông Thị Trưng là mẹ đẻ của Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001.Sau khi bà qua đời, báo Nhân Dân có đăng tin buồn, lấy từ TTXVN. Thông báo này cũng từng công bố trên website của báo, ở địa chỉ, nhưng hiện nay liên kết đến địa chỉ này đã không còn tồn tại”. (2)

Ảnh chụp bài báo về Nông Thị Trưng – “Cô học trò nhỏ của Bác Hồ”

Tài liệu nói trên chính là thêm một minh chứng Nông Đức Mạnh là con của Hồ Chí Minh.

Thứ sáu, khi Nông Đức Mạnh được chọn làm Tổng Bí Thư cộng sản thì Đại Sứ Australia là bàSue Boyd - người nổi tiếng là bộc trực, đã hỏi thẳng Mạnh có phải là con của Hồ Chí Minh không? Nông Đức Manh đã trả lời "Ở Việt Nam ai cũng đều là con của Bác". Câu trả lời vô thưởng vô phạt này có chủ đích lập lờ để không phải xác nhận sự thật mà cũng không bị mang tiếng là chối bỏ một sự thật.

Sau đó cũng gần một năm trên tạp chí Time, ấn bản Châu Á phát hành ngày 23/01/2002 tại Hồng Kông- qua cuộc phỏng vấn của ký giả Kay Johnson - thì Nông Đức Manh lại một lần nữa lên tiếng về thân thế mình, bác bỏ tin đồn trước đây cho rằng ông ta là con rơi của Hồ và một phụ nữ dân tộc là Nông Thị Xuân. Nông Đức Mạnh nói: "Tôi phải lập lại và xác nhận rằng điều đó không đúng sự thật. Tôi có thể nói tên của cha mẹ tôi nhưng họ đã chết... Nếu có ai nói tôi giống HCM, tôi nghĩ có nhiều người trông giống người". Người phỏng vấn hình như vẫn chưa hài lòng với câu trả lời nên lại hỏi: "Nên ông không liên hệ gì với HCM?". Nông Đức Manh lặp lại: "Tất cả mọi người VN là con của Bác Hồ. Tôi nghĩ toàn thể dân Việt xem HCM là cha tinh thần của họ và tôi cũng thế".

Tuy nhiên, chính William Duiker đã tường thuật lại, trong cuốn sách viết về Hồ Chí Minh (tái bản lần thứ hai) chuyện Nông Đức Mạnh đã tiết lộ với tác giả rằng "Mẹ tôi, thành viên của dân tộc thiểu số, đã phục dịch cho ông Hồ vào những năm đầu tiên của thập niên 1940..."

Và đó chính là minh chứng kết hợp với các tài liệu bên trên cho thấy Nông Đức Mạnh chính là con của Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý do vì sao một người dân tộc ít học và cũng bất tài như Nông Đức Mạnh leo lên những chức vụ cao cấp nhất của cộng sản Việt Nam một các nhanh chóng.

II. Cha nào con nấy

Hồ Chí Minh được coi là một kẻ độc tài có nhiều tội ác với dân tộc Việt Nam và bản chất đạo đức đồi bại như giết vợ, bỏ con... (Xin xem “Những sự thật không thể chối bỏ - Phần 15”). Và đứa con Nông Đức Manh của Hồ Chí Minh có đạo đức cũng khá giống cha mình.

Nông Đức Mạnh khi vợ còn sống vẫn tằng tịu với một phụ nữ đang có chồng là Đỗ Thị Huyền Tâm và khi mà ông ta chưa mãn tang vợ đã cưới ngay người phụ nữ chưa ly dị chồng này: “Cuối năm 2010, ngay khi Mẹ tôi lâm bệnh nặng, bà Tâm tìm cách tiếp cận bố tôi, dùng các thủ đoạn lấy lòng những người xung quanh Bố tôi và đặc biệt là lái xe riêng của Bố tôi là ông Vũ Văn Sáng (công tác tại Phòng xe, Văn phòng TW Đảng), thông qua lái xe để nắm các thông tin về gia đình tôi. Từ đó, bà Tâm tạo được vỏ bọc cảm thông chia sẻ với Bố tôi, giả tạo tình cảm để lừa gạt và lợi dụng uy tín của Bố tôi.Tại thời điểm đầu năm 2011, bà Tâm đã có chồng nhưng đã đặt vấn đề tìm hiểu Bố tôi để tiến đến hôn nhân. Chồng bà Tâm là ông Phạm Tuấn Linh – Đại tá, Phó Phòng Kế hoạch, Cục Quân nhu – Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, cho đến ngày 30/6/2011 bà Tâm mới ly dị chồng.” - Trích thư tố cáo của Nông Bích Liên – con gái của Nông Đức Mạnh gửi báo Người Cao Tuổi (3)

Chuyện con gái ông Mạnh tố cáo và đổ tội cho bà Tâm “quyến rũ” ông Mạnh cũng là lẽ thường vì con gái một ông tổng bí không thể làm quá mất mặt cha. Nếu nói tội bà Tâm quyến rũ ông Mạnh thì cũng không hẳn đúng. Mà cái quan trọng đó là ông Mạnh với cương vị tổng bí thư đảng “quang vinh, đạo đức” tại sao đang còn vợ mà đi tằng tịu với phụ nữ đã có chồng con, rồi khi chưa mãn tang vợ đã vồ lấy ngay người đàn bà này. Đừng đổ hết lỗi cho bà Tâm vì nếu ông Mạnh không đồng ý và “thích” thì có đến 3 đời bà Tâm cũng chẳng dám và chẳng làm gì được ông Mạnh. Điều quan trọng hơn là bà Đỗ Thị Huyền Tâm lại là “bồ” của chính con trai ông Mạnh - Nông Quốc Tuấn. Như vậy là bố cướp bồ của con trai hay nói cách cụ thể hơn là một dạng đảo điên trong luân thường đạo đức.

Cha con Nông Đức Mạnh - Nông Quốc Tuấn

Thông tin từ Vietinfor cho biết: “Người vợ mới của Nông Đức Mạnh là nữ Đại biểu Quốc hội Đỗ Thị Huyền Tâm sinh 17/10/1966, quê tại Ninh Xá, Bắc Ninh là đại biểu Quốc hội khóa 12 và khóa 13 kém 3 tuổi so với ông Nông Quốc Tuấn con trai cả của Nông Đức Mạnh và kém Tổng Nông hơn 26 tuổi. Ngoài ra bà Tâm còn được biết là Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Minh Tâm tiền thân là Công ty TNHH Minh Tâm được thành lập từ năm 2002. 

Cách đây khoảng hơn 11 năm, khoảng tháng 2 năm 2000, Nông Quốc Tuấn mới xuất hiện trên chính trường với chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Đó là thời gian sau 12 năm ngồi chơi xơi nước ở Hội Thanh niên Việt nam kể từ sau khi kết thúc cuộc đời là “công nhân xuất khẩu lao động”, do bị cha đẻ là ông Nông Đức Manh, khi đó là Bí thư Tỉnh ủy Bắc Thái bắt buộc phải đi để cai nghiện ma túy tại Singwitz, thuộc CHDC Đức cũ từ năm 1981 – 1987. Thời gian này (từ năm 2000 – 2003) Nông Quốc Tuấn có quan hệ tình cảm với Đỗ Thị Huyền Tâm – vợ mới của cha kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng. Mặc dù lúc đó cô Đỗ Thị Huyền Tâm đã từng có gia đình sau nhiều lần kết hôn và li hôn và tin còn cho biết số vốn điều lệ 5 tỷ đồng ban đầu thành lập công ty TNHH Minh Tâm từ năm 2002 tiền thân của Công ty Cổ phần Tập đoàn Minh Tâm là do Nông Quốc Tuấn cho bà Tâm vay trên danh nghĩa cho mượn bao giờ có thì trả.

Bạn bè của Nông Quốc Tuấn cho biết, cô Đỗ Thị Huyền Tâm thường xuyên qua lại với gia đình cụ Tổng Nông ở biệt thự 66B Phan Đình Phùng, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà nội vốn dành riêng cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp với tư cách là cô em kết nghĩa của Nông Quốc Tuấn. Lâu dần trở thành con gái nuôi của Nông Đức Mạnh. Và khi mà bà Lý Thị Bang – phu nhân Tổng bí thư Nông Đức Mạnh – do tuổi cao, sức yếu đã dược cụ Tổng Nông cho về ở quê và qua đời ngày 25.10.2010 tại xã Lương Hạ, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Rồi chính Nông Đức Mạnh đã cưới cô con gái nuôi thành vợ mới sau này.” (4)

Ngôi nhà Nông Đức Mạnh cướp đất của dân nay được vợ mới đem thế chấp ngân hàng

Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là cha con Hồ Chí Minh - Nông Đức Mạnh khá giống nhau ở khoản tình duyên và sắc dục bậy bạ. Đây cũng là một gợi ý để có thể thêm khẳng định Nông Đức Mạnh thừa hưởng gien của Hồ Chí Minh trong chuyện đời. Nhưng còn chuyện chính trị và quốc gia thì sao? Xin trả lời là cũng “cha nào con nấy” mà thôi.

Xin bạn đọc xuống dưới để theo dõi luận điểm này.

III. Bất tài, độc tài và bán nước

Để chứng minh những cái bất tài, độc tài và bán nước của Nông Đức Mạnh chúng ta nhìn nhận những dẫn chứng dưới dây để thấy rõ điều đó.

Thứ nhất, Trung tướng Nguyễn Hòa (sinh năm 1927) là một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông là tư lệnh quân đoàn 1 trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 và là Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu Khí đầu tiên (năm 1980). Nguyên ủy viên trung ương đảng khóa V, VI, VII (5).

Ảnh: Hội CCB Tập đoàn Dầu Khí và Ban liên lạc Sư đoàn 5 
chụp ảnh lưu niệm cùng Trung tướng Nguyễn Hòa và vợ (6)

Chính ông tướng cộng sản này đã tố cáo Nông Đức Mạnh trong bức thư của ông như sau:

“... Nhiệm kỳ qua, đồng chí Nông Đức Mạnh cũng đã có một số cố gắng. Nhưng xem xét nghiêm túc về một người đứng đầu Đảng, Nhà nước ta thì đồng chí Mạnh có nhiều lỗi, có nhiều sai phạm và sai phạm nghiêm trọng.

Một số ví dụ:

- Là Tổng Bí thư, khi đồng chí Đào Duy Quát bàn về vụ Năm Cam, Bùi Quốc Huy, Trần Mai Hạnh thì đồng chí Mạnh trả lời rằng hãy khoan, hãy chờ đã. Nhưng khi đồng chí Quát và đồng chí Hồng Vinh phổ biến lại cho các báo chí, báo chí phản ứng thì đồng chí Mạnh chối và nói rằng Tổng bí thư không bằng lòng, để cho đồng chí Hồng Vinh chịu trận.

- Khi báo chí đưa ra vụ Năm Cam v.v... thì đồng chí Mạnh (đứng đầu Ban Bí thư) triệu tập cuộc họp với Tổng biên tập các báo uốn nắn răn đe (Điều này cả nước và báo chí đều biết). Đến lúc xử xong Năm Cam chịu tội tử hình, Bùi Quốc Huy và Trần Mai Hạnh ở tù thì các cơ quan nội chính lại phải biểu dương báo chí.

- Là người nắm chức vụ cao nhất trong Đảng nhưng đồng chí Mạnh đưa con của đồng chí Mạnh không đủ tâm, tài làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên, và có ý định đưa làm Bí thư thứ nhất Đoàn để cơ cấu vào Trung ương, vừa mưu cầu danh vọng, vừa có dụng ý gây dựng lực lượng của mình lâu dài trong Đảng.

- Đối với Nguyễn Chí Vịnh, mặc dù một số đông tướng lĩnh và lão thành cách mạng đòi kiểm tra các tội phạm của Vịnh xung quanh các vụ Sáu Sứ, T4, trước thềm Đại hội 9, đồng chí Mạnh vẫn bao che, chỉ giao cho Đảng ủy quân sự Trung ương kiểm tra, không giao cho Ủy ban kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra. Vì Đảng ủy quân sự Trung ương điều tra thì đã có ông Phạm Văn Trà bao che rồi. Khi có thư từ yêu cầu kiểm tra Nguyễn Chí Vịnh gửi đại hội toàn quân và Ban chấp hành Trung ương thì đồng chí Mạnh cho qua. Đặc biệt Đảng ủy quân sự Trung ương (đồng chí Mạnh là Bí thư) vẫn đề nghị lên Bộ Chính trị đề bạt Nguyễn Chí Vịnh làm Thứ tưởng Bộ Quốc phòng, nhờ sự phản ứng của lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội và cán bộ, Đảng ủy quân sự Trung ương mới rút lại đề nghị. Một điều đặc biệt nữa là: đồng chí Mạnh là Trưởng tiểu ban nhân sự đại hội 10 đã đưa ra thảo luận tại Bộ Chính trị việc giới thiệu vào Trung ương Nguyễn Chí Vinh, một kẻ ăn cắp có hệ thống từ khi đi học ở Học viện Kỹ thuật quân sự, một kẻ chưa được kiểm tra nhiều vấn đề mà nhiễu tướng lĩnh, lão thành cách mạng yêu cầu. Trong cuộc họp Bộ Chính trị đó, nghe nói 10 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đồng ý (trong đó có đồng chí Mạnh), 4 đồng chí không đồng ý. Như vậy, đồng chí Mạnh đã giới thiệu, đã bỏ phiếu cho Nguyễn Chí Vịnh một kẻ ăn cắp trước đây, một kẻ tòng phạm phá Đảng thì thử hỏi đồng chí Mạnh là người như thế nào? May thay, Ban chấp hành Trung ương đã sáng suốt, số đông đã gạt Nguyễn Chí Vịnh. Nếu Nguyễn Chí Vịnh, do sự bao che của đồng chí Mạnh được vào Trung ương, cứ thế mà leo mãi, làm chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, rồi làm Tổng bí thư như ông Lê Đức Anh và ông Đỗ Mười đề xướng thì Đảng ta sẽ bị phá hoại nát, cán bộ trung kiên sẽ bị vu không và sát hại.

Là Tổng bí thư, đồng chí Mạnh đã bao che cho ông Đào Đình Bình, trong khi dư luận bất bình với những hành động mua chức, mua quyền, mua uy tín của ông Bình thì nhân dịp giới thiệu ông Bình làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải đồng chí Mạnh vẫn kiên trì giới thiệu ông Bình làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải mà ngày nay, cả Quốc hội và người dân đều đã thấy hậu quả, đã thấy ông Bình và những kẻ thân cận như Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến như thế nào?

Là Tổng bí thư, Trưởng tiểu ban nhân sự Đại hội 10, đồng chí Mạnh đã giới thiệu những kẻ như Bùi Tiến Dũng, Tổng giám đốc PMU 18 thuộc Bộ Giao thông vận tải và Nguyễn Việt Tiến, Thứ trưởng Thường trực Bộ Giao thông vận tải vào Trung ương. Như vậy con người đồng chí Mạnh là thế nào? Có thể làm một người đứng đầu Đảng và Nhà nước không?

- Là trưởng Tiểu ban nhân sự Đại hội 10, đồng chí Mạnh còn giới thiệu một số người như ông Bắc Sơn, một người tay sai của ông Lê Đức Anh, hoạt động vô nguyên tắc, được đồng chí Mạnh định đưa làm Phó Ban Tổ chức Trung ương nhưng bị phản đối, sau đó đưa về làm Phó bí thư trực Tỉnh ủy Thái Nguyên và được Bộ Chính trị và Tiểu ban nhân sự (Nông Đức Mạnh đứng đầu) giới thiệu vào tỉnh ủy và giới thiệu vào Trung ương Đảng.

Đồng chí Mạnh giới thiệu Phan Trung Kiên, một người đã bị Quân khu 7 phát hiện về nhiều tội, trong đó có tội tham nhũng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã báo cáo với Bộ Chính trị nhưng đồng chí Mạnh, và đôi đồng chí khác trong Bộ Chính trị gạt đi, cho qua, bao che cho Phan Trung Kiên. Trên thực tế, đồng chí Mạnh đã không chế Ủy ban Kiểm tra Trung ương, buộc Ủy ban Kiểm tra Trung ương phải theo quan điểm sai trái của đồng chí Mạnh. Có thể còn một số ví dụ khác.

- Đối với vụ Sáu Sứ, T4. Cơ quan chức năng đã báo cáo và cung cấp nhiều tài liệu cho đồng chí Mạnh. Nhưng khi thảo luận vụ này từ năm 2002, đồng chí Mạnh đã gạt vụ Sáu Sứ ra ngoài, đồng chí Mạnh đã không làm triệt để vụ T4, mà vụ T4 là do cả Cục 12, Cục 11, Viện 70 làm dưới sự chỉ đạo của Vũ Chính. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí Đỗ Quang Thắng và một số đồng chí lão thành cách mạng đã có ý kiến không phải một lần.

Trong thư tố cáo của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh đã nói rõ từ năm 1996 Vũ Chính đã vu cáo chính trị đồng chí Võ Nguyên Giáp được sự chỉ đạo của CIA, năm 1996 phái cấp tiến theo Mỹ đã vào Viện 108 đã nắm đồng chí Phạm Song nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, đã có ý đầu độc đồng chí Lê Đức Anh v.v... Nhưng đồng chí Mạnh phớt lờ, lại chỉ thị cho Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm điểm đồng chí Nam Khánh. Vụ đặc tình giả T4 do Tổng cục 2 dựng lên xuất hiện từ giữa năm 1997 đến giữa năm 1999. Vậy các tin vu khống ấy xuất hiện từ năm 1996, là do Vũ Chính chỉ đạo được bộ máy giúp việc của Tổng cục 2 (Cục 12, Cục 11, Viện 70...) thực hiện, sao đồng chí Mạnh lại bao che? Thư đồng chí Nguyễn Nam Khánh tố cáo các điều sai trái trong bản báo cáo Bộ Quốc phòng trước Hội nghị Đảng ủy quân sự Trung ương mở rộng, thì đồng chí Mạnh bao che cho rằng đó chỉ là một cuộc giao ban.

Ai cũng biết trong Quân đội, giao ban là Ban trực trước bàn giao lại tình hình cho Ban trực sau (hoặc hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng...) được tiến hành trong một thời gian ngắn. Làm gì có sự giao ban trong toàn quân, họp hết các đầu mối của toàn quân lại để giao ban, trong cả một ngày. Thực chất cuộc Hội nghị toàn quân đó rồi các cuộc hội nghị Quân khu Quân đoàn kế tiếp có mời cả Chủ tịch Hội Cựu chiến binh là lợi dụng "Ngọn cờ chống Mỹ" để đánh vào đồng chí Nguyễn Nam Khánh, để đưa ra một dư luận đồng chí Nguyễn Nam Khánh có liên hệ với phái cấp tiến để răn đe lão thành (Đề nghị xem kỹ văn bản Báo cáo của Bộ Quốc phòng do Tổng cục 2 chuẩn bị vào báo cáo).

Đồng chí Mạnh, chủ trị Bộ Chính trị và Ban Bí thư lại kết luận rằng: Vũ Chính chỉ có khuyết điểm là quản lý cán bộ không chặt chẽ. Thực chất Vũ Chính là người chỉ đạo vụ T4, dùng đặc tình giả để vu khống chính trị gần 30 đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chia rẽ phá hoại Đảng, huy động bộ máy Tổng cục 2 (gồm Cục 11, Cục 12, Viện 70...) làm việc đó. Nguyễn Chí Vịnh đã là cán bộ Cục 12 trước đây, tháng 2/1995 phụ trách Cục phó Cục 2, tháng 5/1995 được bổ nhiệm Cục phó Cục 12, rồi làm Cục trưởng Cục 12, Tổng Cục phó, Tổng cục trưởng Tổng cục 2...

Tóm lại, qua thực tế việc làm, đồng chí Mạnh đã không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn là Ủy viên Trung ương, càng không đủ tiêu chuẩn và uy tín là người đứng đầu Đảng và Nhà nước.

- Đồng chí Mạnh đã "ăn theo" công lao của các đồng chí khác và vơ vào mình. Công phát triển kinh tế là công của đồng chí Khải. Công làm luật ở Quốc hội và bước đầu thực hiện quyền giám sát của Quốc hội là công của đồng chí An, công về nội chính, tư pháp của Công an, các cơ quan nội chính, của đồng chí Trương Vĩnh Trọng và đồng chí Trần Đức Lương... Còn ngoại giao thì đồng chí Mạnh đi Pháp, đi Nga, đi Nhật đều đạt kết quả thấp, nhạt.

Cán bộ, có cả Ủy viên Trung ương nói: đồng chí Mạnh chỉ ăn theo, vô tích sự.

Trong khi đó, việc chính của đồng chí Mạnh là xây dựng Đảng, thì trải qua một nhiệm kỳ, xây dựng chỉnh đốn Đảng đạt được kết quả thấp, chưa đạt yêu cầu cơ bản.

- Lãnh đạo chống tham nhũng là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, nhưng không lãnh đạo thực hiện được chống tham nhũng có hiệu quả. Tham nhũng càng ngày càng nghiêm trọng. Ai chịu trách nhiệm? Đồng chí Mạnh phải chịu trách nhiệm chính. Đồng chí Mạnh cứ nói mãi: từng chi bộ, từng cơ sở phải xem xét. Tất nhiên rồi, nhưng trước hết phải hiểu cơ sở là ai? Phải xem từ Bộ Chính trị, các Ban Cán sự Đảng ở cấp Trung ương, các ban Thường vụ cấp tỉnh và tương đương.

Chống quan liêu cũng vậy? Ai quan liêu? Đồng chí Mạnh và một số đồng chí trong Bộ Chính trị là những quan to và quan liêu của nước ta. Đi thăm các địa phương thì huy động đón rước, tốn tiền của, tốn thì giờ, chụp ảnh để "đánh bóng"; chỉ nghe báo cáo, chỉ nói mấy điều ai cũng biết, ai cũng nói được, những vấn đề phức tạp và xấu không phát hiện được. Đến khi đã xảy ra rồi mới bắt đầu yêu cầu báo cáo...

- Đạo đức xã hội ngày càng xuống cấp.

- Các vấn đề tồn đọng trong Đảng thì tránh né, bao che, không giải quyết được.

- Trong Bộ Chính trị thì nể nang, xoa dịu, lấy lòng nhau để rồi phô trương là đoàn kết, là dân chủ.

- Thực tế là không lắng nghe tiếng nói của nhân dân, của đảng viên, kể cả của một số đồng chí lão thành cách mạng có tâm huyết. Ngược lại tìm cách trù dập, răn đe người phát hiện tội phạm với cái cớ cho là "làm lộ bí mật".

- Là Tổng bí thư nhưng không gương mẫu chấp hành điều lệ, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của Đảng, như nguyên tắc về quyền của đảng viên.

- Đầu óc xơ cứng, chỉ đọc những bài viết sẵn, nói những lời nói công thức, không sáng tạo, không năng động, không giải quyết những vụ việc nổi cộm, không thể đổi mới đúng hướng và toàn diện...”

(Đọc nguyên văn bức thư tại: (7)

Đọc qua bức thư của tướng Nguyễn Hòa chúng ta thấy điều gì? Đó là Nông Đức Mạnh rất bất tài và vô dụng. Đặc biệt đó là việc đã dung túng cho Nguyễn Chí Vịnh thành lập tổng cục 2 mà thực chất là cánh tay nối dài của Trung Nam Hải góp phần bán nước cho Trung cộng nhanh chóng hơn. Bạn đọc có thể đọc thêm bức thư của tướng cộng sản Nguyễn Nam Khánh để thấy rõ hơn điều này (8)

Thứ hai, hãy cùng đọc bức thư sau đây của một gia đình là nạn nhân cộng sản đang sống tại Việt Nam để chúng ta thấy sau năm 1975 đảng cộng sản đã cướp những gì của nhân dân:

“Kính Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN

Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) đảng CSVN

Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do đảng CSVN cầm quyền. 

Chúng tôi có tên dưới đây:

Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng Nai. 

Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị em Khu Công nghiệp Điện Bàn Quảng Nam. 

Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp Biên Hòa II.

Dương Thái PhongHuỳnh TiếnTrương LongVũ HàTrần TáVõ HảiNguyễn thị Tuyết, thuộc khu công nghiệp Tân Bình và khu chế xuất Vĩnh Lộc. 

Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon.

Thưa quý Ngài lãnh đạo Bộ Chính Trị TW đảng CSVN

Ngày trước miền Nam 1975, gia đình chúng tôi chưa được cách mạng giải phóng. Cha mẹ chúng tôi có nhà, có đất làm ăn khấm khá chưa biết làm thuê làm mướn là gì. Trong thời đó những nhà thương gia Ấn Độ, kỹ sư người Nhật, Hàn Quốc vào miền Nam làm thuê và mua bán. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào người dân Việt Nam. Sau năm 1975, miền Nam được cách mạng giải phóng khỏi ách nô lệ, đảng hô hào nâng đỡ và đấu tranh cho hai giai cấp công nhân và nông dân. Chính lá cờ đảng CSVN thể hiện biểu tượng búa, liềm. Sự thật có phải như vậy không? Thưa, sự thật rất phũ phàng! Sau khi chiếm được miền Nam là cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại bản thì gia đình chúng tôi bị mất nhà, mất đất. Trong khi chúng tôi có tiền dư thóc để, thì chúng tôi bị lấy nhà và bị đuổi đi vùng sâu nước độc để khai phá đất hoang làm ăn. Do những cơn sốt rét vàng da, có những gia đình chết phân nửa, có những gia đình phải chết hết. Khi trở về thành phố thì nhà cao cửa rộng, ruộng vườn của mình thì bị cán bộ đảng viên thu. Điều này chúng tôi có nói sai đâu. Những villa nhà lầu hiện nay là nhà của đảng viên, thì thử hỏi cha ông của mấy ông này mua nhà đất từ thời nào để lại cho mấy ông đảng viên này, nếu không phải cướp của chúng tôi thì từ đâu mà có. Cuộc đời chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị cướp. Đời Cha tôi bị cướp, đời tôi cũng bị cướp. Những gia đình chúng tôi lên vùng kinh tế mới khai hoang được vài ba mẫu đất làm ăn, cuộc sống chưa ổn định thì trò cướp bóc lại theo đuổi theo người dân nghèo chúng tôi, kế đến là chiêu thức kêu gọi đầu tư rước ngoại bang vào, lại tiếp tục lấy đất của chúng tôi. Bằng nhiều chiêu thức gạt gẫm lừa bịp gian manh quỷ quyệt, trù dập vu khống chụp mũ.” (9)

Chúng ta thấy gì trong bức thư trên? Đó là bức thư tố cáo những kẻ cướp là cộng sản Việt Nam. Không những đời cha ông mà cho đến đời nay vẫn bị cướp. Bản thân bức thư này gửi cho Nông Đức Mạnh - lúc đó làm tổng bí thư và Mạnh đã làm ngơ nó. Chứng tỏ Mạnh cũng bất tài và độc tài cùng với khả năng cướp bóc như tất cả lãnh đạo cộng sản mà thôi.

Thứ ba, từ một anh Trung cấp Lâm Nghiệp, Mạnh leo lên chức Tỉnh ủy viên, Phó Ty Lâm nghiệp, phó chủ tịch, phó tỉnh ủy kiêm chủ tịch rồi bí thư tỉnh ủy Bắc Thái. Năm 1989, Mạnh về Hà Nội làm Trưởng ban Dân tộc Trung ương đảng kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Năm 1991, Mạnh vào Bộ Chính trị và năm 1992 thành Chủ tịch Quốc hội.

Chín năm sau, năm 2001, giữa lúc các phe phái kèn cựa nhau, không ai chịu ai, chúng hướng đến giải pháp thứ ba là đưa tên “đội phá sơn lâm” không có thực quyền vào vị trí cao nhất đảng, trở thành “đảng trưởng phá sơn hà”! Từ một tên “công nhân lâm nghiệp” trình độ trung cấp đến một vị trí cao nhất nước, cuộc đời Mạnh cứ ngỡ như chuyện thần tiên. Đó là do Nông Đức Manh Mạnh là giọt máu của Hồ Chí Minh. Trở thành người mang danh vị cao nhất của đảng cộng sản, từ nghề phá sơn lâm Mạnh chuyển sang chuyển sang nghề phá sơn hà. Chỉ đơn giản nhắc lại hành trình bán nước của Mạnh trong việc cho Tàu vào phá nát vùng chiến lược Tây Nguyên theo tin tức của “báo đảng”: “Từ ngày 30/5- 2/6/2008, đồng chí Nông Đức Mạnh thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.

Xin bạn đọc chú ý đến thông tin ngắn gọn mà báo đảng trích dẫn về cuộc họp này: “Theo Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc bao gồm 9 điểm, hai bên bày tỏ hài lòng trước những thành quả to lớn đã đạt được trong quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước trong những năm qua; khẳng định tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung là tài sản quý báu của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, cần hết sức gìn giữ và không ngừng phát huy mạnh mẽ.

Hai bên bày tỏ sẽ tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trên các lĩnh vực, tăng cường tin cậy toàn diện lẫn nhau, đi sâu hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy cùng nhau phát triển, thúc đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Hai bên tăng cường phối hợp trong các công việc quốc tế và khu vực, cùng nhau thúc đẩy xây dựng hòa bình lâu dài, cùng phồn vinh ở châu Á và trên thế giới.

Hai bên nhấn mạnh sẽ tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp tiếp xúc mật thiết giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; tuyên bố thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam - Trung Quốc... Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ hơn nữa, tích cực giải quyết các vấn đề còn lại và đẩy nhanh tiến độ công tác, đảm bảo thực hiện đúng thời hạn mục tiêu hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền trong năm 2008 và sớm ký văn bản mới về quy chế quản lý biên giới nhằm xây dựng đường biên giới trên đất liền giữa hai nước thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác...”.

Nội dung trên trích từ bài báo của Đại sứ quán cộng sản tại Brazil (10).

Nông Đức Mạnh chỉ đạo ký văn kiện bán nước năm 2008 cùng Hồ Cẩm Đào

Nửa năm sau, mãi đến ngày 9.2.2009, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam mới công bố Tuyên bố chung giữa Mạnh và Hồ Cẩm Đào trong chuyến đi năm 2008.

Lý do của sự chậm trễ này là một điều khoản nhỏ mà người dân có thể xem như một hành động bán nước: cho Trung cộng khai thác bauxite tại Tây Nguyên. Nghĩa là biết chuyện mình làm là sai nhưng Mạnh vẫn lén lút ký. Lén lút ký nhưng Mạnh biết là không thể giấu mãi vì sớm muộn gì Tàu cũng vào Tây nguyên, nên phải công bố. Và để công bố, Mạnh đã phải bỏ ra nửa năm chuẩn bị cho việc bịt miệng và răn đe báo chí, đưa Nguyễn Tấn Dũng ra dọa: khai thác bauxite là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”.

Lần đầu tiên danh từ bôxít xuất hiện là ngày 3.12.2001 trong “Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnhcụ thể là trong điểm thứ 6:

“6- Hai bên xác định trong thế kỷ mới cần tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học-kỹ thuật và các lĩnh vực khác giữa hai nước theo phương châm bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả, bổ sung ưu thế cho nhau, hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển; tích cực khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên khai thác thêm thị trường hàng hóa của hai nước, tăng cường đầu tư và hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác kinh tế và kỹ thuật, thực hiện các dự án hợp tác đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội thiết thực. 

Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ; và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông. 

Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Trung Quốc trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới. Trung Quốc tích cực ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.” - Xem toàn văn tại website của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ: (11).

Tháng 11.2006, Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam chuyến nữa. Lần này thông báo viết: “Từng bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông...” (12).

Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là Nông Đức Mạnh đã bán nước cho Trung cộng thông qua dự án Bô Xít Tây Nguyên. Đó là bằng chứng không thể chối cãi của kẻ đứng đầu đảng độc tài cộng sản.

Thứ tư, theo một tài liệu được tiết lộ bởi Wikileaks thì Vụ Bauxit Tây Nguyên, Nông Đức Mạnh nhận 300 triệu USD - Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu USD là có thật: “Những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la...

Theo tin từ một thân hữu báo chí ở Norway (Na Uy), một điện văn trong số 250,000 mà WikiLeaks lấy được từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đã giao cho tờ báo buổi chiều lớn nhất Na Uy là tờ Aftenposten thì có một điện văn liên quan về Việt Nam nói đến dự án khai thác bô-xít nhôm ở Tây Nguyên.

Nội dung điện văn chính yếu là yêu cầu Bộ Tài Chính Hoa Kỳ giúp điều tra và xác minh một số giao dịch ngân hàng quốc tế. Cụ thể, theo điện văn này thì một nguồn tin trong giới ngân hàng Việt Nam cho biết kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la.

Cũng trong điện văn này, nguồn tin từ ngân hàng Việt Nam cho biết những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Các chuyển ngân trong phần của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thì không đề cập đến ngân hàng nước nào”. (13).

Mặc dù chưa kiểm chứng được bằng văn bản công khai của Wikileaks nhưng việc đàn áp biểu tình chống Trung cộng(Trong đó có chống khai thác Boxit Tây Nguyên), lặng im xem các ý kiến phản đối của nhiều quan chức như Đặng Hùng Võnhóm 72 và nhiều tổ chức, cá nhân khác của cộng sản Việt Nam có thể xem là bằng chứng về việc cộng sản nhận tiền và cho giặc Tầu vào làm boxit tại Việt Nam. Một minh chứng đặc biệt cho việc này là TS Cù Huy Hà Vũđã vào tù vì việc chống lại chủ trương cho Trung cộng khai thác Boxit Tây Nguyên. Người ta nếu không nhận tiền bán nước thì không thể bỏ tù một tiến sỹ Luật, con của một đại công thần cộng sản vì một lý do lãng nhách nào khác.

Thứ năm, sự bất tài và phá đảng, bán nước của Nông Đức Mạnh còn được RFA tổng hợp trên một bài báo có phỏng vấn nhiều người trong đó có quan chức cộng sản và nhà báo Bùi Tín - một cựu cộng sản như sau: “Ông Bùi Tín kể: Lá thư của ông Giáp được rất nhiều vị tướng, từ ông Chu Huy Mân đến một số vị thiếu tướng, đặc biệt ông Nguyễn Nam Khánh hết sức ủng hộ. Do đó trước Đại hội 10, năm 2005, Ông Nông Đức Mạnh bị buộc phải tổ chức ra một ban, gọi là Ban Kiểm tra liên ngành đặc biệt, gồm đại diện của: Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Tối cao, Bộ Tư pháp, Ban Bảo vệ Trung ương, Cục Bảo vệ Quân đội, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính,... lên đến hơn 20 người. Ban Kiểm tra liên ngành đã làm việc và đã có một báo cáo- mà tôi được biết là dày đến 70 trang - hoàn thành trước Đại hội 10. Trước khi Đại hội 10 họp thì ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cùng với Bộ Chính trị lúc đó có một sáng kiến là ỉm báo cáo này đi. Họ cho là báo cáo này nguy hiểm quá. Nếu trong Đảng và nhân dân được biết thì có thể tạo ra sự đảo lộn rất lớn về chính trị. Ông ấy viện cớ là nếu phổ biến, trung ương mà biết, đại hội mà biết thì gia đình, bạn bè họ đều biết thì khó có thể giữ được bí mật. Cho nên ông Nông Đức Mạnh mới thuyết phục Bộ Chính trị, thuyết phục Ban Chấp hành Trung ương trước Đại hội 10 là không phổ biến báo cáo tuyệt mật đó. Ông ấy yêu cầu là do sự ổn định của chế độ, ổn định của Đảng, coi như Bộ Chính trị khóa trước đã xem và coi như đã giải quyết xong xuôi. Hủy báo cáo này đi, coi như báo cáo này không có.” (14).

Cha con  nhà độc tài

Thứ sáu, trong thời kỳ của mình Nông Đức Mạnh cũng là một kẻ độc tài phá dân chủ. Hàng loạt tên tuổi lớn đấu tranh cho tự do dân chủ bị Nông Đức Mạnh cùng Võ Văn Kiệt và sau này là Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng đàn áp hoặc cho vào tù như: Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải - Điếu Cày, đàn áp Khối 8406 đấu tranh ôn hòa cho dân chủ tại Việt Nam... Như vậy Mạnh chính là một kẻ thù của dân chủ và tự do tại Việt Nam. Mạnh cũng giống như các lãnh đạo cộng sản khác rất bất tài nhưng độc ác và độc tài.

Chính Nông Đức Mạnh đã chỉ đạo ra "Nghị quyết 36/CP" ngày 26/3/2004 của Bộ chính trị cộng sản để gọi kẻ cựu thù là khúc ruột ngàn dặm, một bộ phận không thể tách rời. Đến nay ai cũng biết đó là nghị quyết vừa để rút ruột những người Việt tị nạn cộng sản. Vừa để cho phép đánh phá phong trào tự do thông qua chiêu bài “hòa hợp, hòa giải”. (15)

IV. Kết Luận

Một đứa con rơi của Hồ Chí Minh nên đã nhanh chóng từ một kẻ thất học leo dễ dàng lên ngai vua để tham nhũng và vơ vét tài sản của nhân dân. Chính Nông Đức Mạnh cũng là kẻ kéo thêm dân tộc Việt vào vòng xoáy nô lệ cho Trung cộng mà cha ông ta là Hồ Chí Minh đã chỉ đạo cho các tầng lớp lãnh đạo cộng sản sau này. Chế độ cộng sản luôn sản sinh ra những ký sinh trùng đục khoét, bán nước và hại dân như Nông Đức Mạnh. Cần nhìn thẳng vào sự thật lịch sử để thấy cộng sản là không thể sửa chữa mà chỉ có thể gạt bỏ. Đó chính là một Việt Nam tươi sáng tương lại khi không còn ách thống trị của băng đảng cộng sản bạo quyền.

10/09/2013

danlambaovn.blogspot.com

____________________________________

Chú thích:


         



                                      ==========================================

                                      

2/ Mạng lưới Blogger Việt Nam - Gặp Phái đoàn EU trước thềm đối thoại nhân quyền


Đại diện Mạng lưới Blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho bà Veronique Arnault, đại diện Phái đoàn EU sang dự phiên Đối thoại Nhân quyền 2013 với Việt Nam. 

Chiều ngày 10/9, 4 thành viên của Mạng lưới Blogger Việt Nam đã có cuộc gặp với đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam để đưa bản Tuyên bố 258 và trao đổi về tình hình nhân quyền trong nước. Đáng chú ý là cuộc gặp này diễn ra ngay trước phiên đối thoại nhân quyền 2013 giữa EU và Việt Nam.

Bà Véronique Arnault, Giám đốc phụ trách nhân quyền của Cơ quan Hành động Đối ngoại châu Âu (EEAS, tương đương với một Bộ Ngoại giao chung của EU), vừa đến Hà Nội để bắt đầu đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam. Đối thoại nhân quyền năm nay diễn ra vào ngày 11/9, và bà đã dành riêng cho các blogger thuộc Mạng lưới Blogger Việt Nam một cuộc gặp chính thức.

Tham dự cuộc gặp, ngoài bà Véronique Arnault, còn có một số quan chức cấp cao của EU: bàDelphine Malard, Cố vấn thứ nhất, phụ trách Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Juan Jose Almagro Herrador, cố vấn Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Konstantin Von Mentzingen, quan chức về Việt Nam và Đông Nam Á; và bà Rose Ieremia, Đại sứ Hy Lạp tại Việt Nam. (Hy Lạp cùng với Ireland và Litva giữ chức chủ tịch Hội đồng Liên minh châu Âu nhiệm kỳ 2013-2014).

Phó Đại sứ Thụy Điển Elenore Kanter, người từng tiếp các blogger Việt Nam trong cuộc gặp “nghẹt thở” ngày 7/8 khi 5 blogger phải khó khăn lắm mới qua được hàng rào an ninh để vào Đại sứ quán, cũng tham dự.

Phía Mạng lưới Blogger Việt Nam có 4 blogger với đầy đủ đại diện từ ba miền đất nước:Nguyễn Tường ThụyNguyễn Chí Tuyến (Hà Nội), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức bloggerMẹ Nấm, ở Nha Trang), Châu Văn Thi (blogger Yêu Nước Việt, ở Sài Gòn).

Mạng lưới Blogger Việt Nam sẽ có bài tường thuật chi tiết về cuộc gặp này với Phái đoàn EU.

Đại diện Mạng lưới blogger Việt Nam và phái đoàn EU trao đổi về tình hình nhân quyền Việt Nam 

Đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam

EU tổ chức đối thoại định kỳ về nhân quyền với hơn 30 nước ngoài EU. Mỗi cuộc đối thoại đều được tiến hành căn cứ vào Nguyên tắc chung của EU về đối thoại nhân quyền.

Các vấn đề đưa ra trong mỗi cuộc đối thoại được quyết định theo từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, một số vấn đề thuộc diện ưu tiên thì sẽ luôn ở trong chương trình nghị sự của mỗi cuộc đối thoại. Đó là việc ký, phê chuẩn và thực hiện các công ước nhân quyền quốc tế, hợp tác với các thủ tục và cơ chế nhân quyền quốc tế, chống tra tấn, xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử, bảo đảm quyền trẻ em, quyền phụ nữ, tự do biểu đạt và vai trò của xã hội dân sự.

Tham gia đối thoại là các quan chức nhà nước về nhân quyền, bao gồm cả đại diện từ các cơ quan chức năng như quốc hội, bộ tư pháp, bộ nội vụ, công an, thi hành án, v.v. Đối thoại giữa EU và các tổ chức xã hội dân sự ở nước sở tại thường diễn ra song song, bên lề những cuộc đối thoại cấp nhà nước.

Ngay sau cuộc gặp với Mạng lưới Blogger Việt Nam, Phái đoàn EU đã tiếp tục gặp gỡ (không chính thức) một số quan chức, để chuẩn bị cho đối thoại nhân quyền chính thức vào ngày 11/9. 



                              ================================