Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Tình tiết mới trong phiên xử phúc thẩm hai sinh viên yêu nước Phương Uyên - Nguyên Kha

1/ Tình tiết mới trong phiên xử phúc thẩm hai sinh viên yêu nước Phương Uyên - Nguyên Kha


VRNs (07.08.2013) - Sài Gòn - Anh Đinh Nhật Uy sẽ có mặt ở phiên tòa xử phúc thẩm các sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, để đòi lại toàn bộ tài sản của công ty do công an chiếm dụng từ gần một năm nay.

Vào ngày 01.08, Thẩm phán Trương Thị Minh Thơ gửi công văn số 9234/2013/GTT cho Luật sư Nguyễn Văn Miếng với nội dung, Ls Nguyễn Văn Miếng là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đinh Nhật Uy trong vụ án Đinh Nguyên Kha và đồng phạm, phạm tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN VN”, có mặt vào lúc 7 giờ 30, ngày 16.08.2013, tại Tòa án nhân dân tối cao 116 Trương Định, phường 1, Tp Tân An, tỉnh Long An.

Ls Miếng giải thích về việc anh Uy kháng cáo đòi lại tài sản của công ty anh Uy: “Trong phiên tòa sơ thẩm, tòa tuyên tịch thu tất cả các tài sản khi cơ quan điều tra khám xét và tịch thu tài sản của công ty anh Uy, mà cơ quan điều tra cho rằng anh Uy có liên quan đến vụ án này. Nhưng khi cơ quan điều tra kiểm tra và khám xét kỹ thì tất cả các tài sản của công ty anh Uy không liên quan đến vụ án của Nguyên Kha.

Anh Uy đã kháng cáo để đòi lại tất cả các tài sản này. Do đó, anh Uy sẽ có mặt trong phiên tòa sắp tới cùng với hai sinh viên yêu nước là Phương Uyên và Nguyên Kha.

Trên facebook bà Liên, mẹ của Nhật Uy và Nguyên Kha khích lệ tinh thần luật sư Miếng: “Ls Nguyễn văn Miếng sẽ bào chữa cho 2 đứa con của mình đó bà con. Chúc Ls chân cứng đá mềm. Cố lên, cố lên.” 

Vy Vu cảm động: “Em nguyện cầu mọi việc tốt đẹp. Em luôn hy vọng. Chị giữ sức khoẻ nhé Chị. Mọi người luôn bên Chị và Gia Đình.” 

Minh Hương chia sẽ với gia đình bà Liên: “Cầu mong mọi sự tốt đẹp đến với chị, tôi cũng người mẹ của hai con trai, tôi hiểu nỗi đau của chị.”

Tin Vui hy vọng: “Cầu chúc bà con có một chuyến đi Long An cuối tuần bình an. Tập 1 (sơ thẩm) đã làm cho những người yêu mến VN hãnh diện về hai bạn trẻ. Hy vọng tập 2 (phúc thẩm) sẽ làm cho cả thế giới hãnh diện vì những người đến tham dự phiên tòa”

Hoài Niên phản hồi: “Cha ơi! Nếu sức khỏe cho phép con sẽ đi Long An với tư cách cá nhân. Con đi theo các bạn trẻ dễ bị “chụp nón cối” lắm..haaaaaaaaaaaaa..”

Xin nhắc lại, trong phiên tòa sơ thẩm vào ngày 16.05 vừa qua, tòa tuyên án Đinh Nguyên Kha 8 năm tù và 3 năm quản chế và nữ sinh Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù giam và 3 năm quản chế.





 ================================================================

Tọng cái gì khá khá vào mồm dân !


=================================================================

2/ Tin tổng hợp về blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 tại ĐSQ Thụy Điển


"Mục đích của chúng em đến Đại sứ quán Thụy Điển lần này là vì bản tuyên bố 258 của blogger Việt Nam kêu gọi xóa bỏ điều 258 của Bộ luật hình sự Việt Nam cũng như trao đổi với Đại sứ quán về những vi phạm nhân quyền của Việt Nam trong một số năm gần đây cũng như về tình hình phát triển và kỷ niệm 40 năm của đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam." - Nguyễn Thu Trang

********

VOA - Blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho đại sứ quán Thụy Điển

Trà Mi (VOA) - Đại diện Mạng lưới các blogger Việt Nam ngày 7/8 trao cho đại sứ quán Thụy Điển tại Hà Nội Tuyên bố phản đối điều 258 Bộ luật hình sự quy định tội danh “lợi dụng các quyền dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”. 

Bản Tuyên bố nói điều 258, một điều luật vốn được áp dụng đối với các ngòi bút chỉ trích nhà nước, vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân và kêu gọi Việt Nam sửa đổi luật pháp để trở thành một thành viên có trách nhiệm của Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016.

Các blogger nói cuộc gặp sáng nay giữa họ với giới chức đại sứ quán Thụy Điển diễn ra thành công dù gặp phải sự ngăn cản từ lực lượng an ninh.

Trong số các blogger bị công an giữ chân không cho tới sứ quán có anh Nguyễn Vũ Hiệp. Trong một bức thư công bố lên mạng, anh Hiệp nói anh bị buộc hoặc phải lên làm việc với an ninh ‘đột xuất’ hoặc phải ngồi nhà. 

Tuần trước, anh Hiệp cũng nhận được lời mời làm việc với an ninh đúng vào thời điểm cuộc hẹn dự kiến với đại sứ quán Hoa Kỳ để trao Tuyên bố 258.

Blogger này nói anh không hiểu vì sao chính phủ Việt Nam lại sợ một bản tuyên bố về quyền con người như Tuyên bố 258 và nhờ đại sứ quán Thụy Điển chuyển thắc mắc đó tới chính phủ Việt Nam vì “đôi tai của họ thường đóng kín với người dân thường”.

Cuộc quốc tế vận của mạng lưới blogger Việt Nam đang được tiến hành tại Thái Lan với một nhóm bạn trẻ đã lần lượt trao Tuyên bố 258 cho Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và các cơ quan bảo vệ nhân quyền trong khu vực và quốc tế.

Blogger Đoan Trang, một thành viên trong nhóm vận động, phát biểu với VOA Việt ngữ từ Bangkok:

“Điều tôi mong mỏi nhất là có thể góp phần thay đổi chút nào suy nghĩ của người dân Việt Nam nói chung và giới blogger Việt Nam nói riêng. Tôi rất mong muốn người dân Việt nhận ra rằng trong thời đại toàn cầu hóa này, chính phủ và nhân dân mỗi quốc gia đều phải tham gia một cách tích cực với cộng đồng quốc tế, có trách nhiệm bảo vệ nhân quyền. Mọi công dân phải biết tự bảo vệ các quyền lợi đó của mình và có trách nhiệm với đất nước, với khu vực, và thế giới.”

Thời gian gần đây có ba blogger bao gồm Đinh Nhật Uy, Trương Duy Nhất, và Phạm Viết Đào bị bắt giữ vì điều 258.



*

RFA - Blogger Việt Nam trao "Tuyên Bố 258" cho Đại sứ quán Thụy Điển

Mặc Lâm (RFA) - Vào lúc 9 giờ sáng hôm nay tại Hà Nội, 5 blogger là Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Đình Hà, Lê Hồng Phong, Nguyễn Ngọc Trai và Nguyễn Văn Hiên đã tới đại sứ quán Thụy Điển tại Phố Núi Trúc quận Ba Đình Hà Nội để trao cho Bà Elenore Kanter, Phó Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam bản tuyên bố 258 chống lại việc đàn áp tự do ngôn luận tại Việt Nam. 

Bạn trẻ Nguyễn Thu Trang cho biết mục đích của việc làm này: 

"Mục đích của chúng em đến Đại sứ quán Thụy Điển lần này là vì bản tuyên bố 258 của blogger Việt Nam kêu gọi xóa bỏ điều 258 của Bộ luật hình sự Việt Nam cũng như trao đổi với Đại sứ quán về những vi phạm nhân quyền của Việt Nam trong một số năm gần đây cũng như về tình hình phát triển và kỷ niệm 40 năm của đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam." 

Blogger đã trao đổi một số thông tin của Việt Nam gần đây về vấn đề nhân quyền, điển hình như mới đây chính phủ Việt Nam đã ra nghị quyết 72 để hạn chế tự do thông tin của công dân trên internet cũng như các trang mạng xã hội. Các blogger cũng trao đổi với bà đại sứ về vấn đề các blogger bất đồng chính kiến tại Việt Nam khi nói lên tiếng nói của mình đã bị chính quyền đàn áp, bỏ tù với những bản án chính trị rất nặng nề. 

Bà Elenore Kanter, Phó Đại sứ Thụy Điển, tiễn các đại diện blogger Việt Nam ra tận cổng tòa Đại sứ. Photo: cafevn.org 

Ngoài ra, 5 blogger cũng trao đổi với bà phó Đại sứ và Tùy viên chính trị Thụy Điển về vấn đề người dân khiếu kiện đất đai và nạn tham nhũng tại Việt Nam hiện nay. Năm blogger đại diện cho blogger Việt Nam muốn đại sứ quán Thụy Điển cũng như các tổ chức quốc tế có thể nghe đuợc ý kiến của nguời dân Việt Nam để cho họ thấy Việt Nam rất khác với những gì mà chính phủ đã gửi văn bản cho Liên hiệp quốc. 

Bạn Nguyễn Đình Hà diễn tả thiện chí của đại sứ quán Thụy Điển thông qua thái độ của Bà Elenore Kanter: 

"Bà Phó Đại sứ và những người đón tiếp rất là thiện chí. Họ rất vui vẻ và thân thiện. Chúng tôi ngồi chia sẻ với nhau trong vòng hai giờ đồng hồ rất nhiều vấn đề về nhân quyền Việt Nam, tất nhiên là không bao giờ hết được cả nhưng mà trong thời gian như thế thì rất là tốt đẹp." 

Bà phó Đại sứ có chia sẻ rằng tất cả những thông tin mà blogger, facebooker mang đến cho bà thì sẽ được bà chuyển đến chính phủ Thụy Điển và EU để cho mọi nguời biết. 

Trong cùng lúc ấy tại Bangkok, theo blogger Nguyễn Anh Tuấn cho biết chương trình 'quốc tế vận' của mạng lưới bloggers Việt Nam vẫn tiếp tục với buổi gặp đại diện Google khu vực Đông Nam Á, để thông tin về tình hình tự do thông tin của Việt Nam, đặc biệt là chi tiết Nghị định 72 vừa được ban hành, cũng như nội dung Tuyên bố 258.



*

BBC - Trao Tuyên bố 258 cho sứ quán Thụy Điển

BBC - Nhóm blogger tới tòa đại sứ quán Thụy Điển ở Hà Nội để trao Tuyên bố chung của mạng lưới blogger Việt Nam trong đó phản đối điều 258 Bộ Luật Hình sự. 

Trả lời phỏng vấn BBC vào chiều cùng ngày, ông Lê Thiện Nhân, một trong các blogger có mặt tại đây, nói họ đã gặp một số trở ngại nhất định trên đường đến tòa đại sứ.

"Sáng nay khi chúng tôi đến trước cửa đại sứ quán thì lực lượng công an rất đông," ông nói.

"Có bốn người của đại sứ quán ra đón, sau đó chúng tôi vào trót lọt."

Tuy nhiên ông Nhân cho biết thêm chỉ có năm trên tổng số sáu blogger có mặt theo dự kiến, riêng blogger Nguyễn Vũ Hiệp không thể tới nơi vì bị công an giữ tại nhà.

Blogger này cho biết cuộc nói chuyện diễn ra khoảng hai tiếng, với sự có mặt của Phó Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam, bà Elenore Kanter (trang web của đại sứ quán Thụy Điển ghi chức danh của bà Kanter là Bí thư Thứ nhất Phụ trách Chính trị và Kinh tế).

"Thân thiện, cởi mở"

Ông Nhân cũng cho biết không khí trao đổi giữa hai bên là "thân thiện" và "cởi mở".

"Chúng tôi trao đổi trong không khí rất cởi mở những vấn đề về tự do báo chí, về dân oan bị mất đất, vấn đề về hệ thống pháp luật cũng như chống tham nhũng ..."

"Họ có nói là những thông tin các bạn đưa, chúng tôi sẽ chuyển lên Bộ Ngoại giao Việt Nam và chuyển lên EU để người ta nắm được tình hình và sẽ có tiếng nói, có sự can thiệp."

Trả lời trước câu hỏi tại sao các blogger lại chọn gửi Tuyên bố 258 đến đại sứ quán Thụy Điển, ông Nhân cho biết cả "Đại sứ quán Mỹ và Thụy Điển là hai đại sứ quán tỏ ra quan tâm đặc biệt và tỏ ra rất nhiệt tình," đồng thời tiết lộ trong thời gian tới sẽ tiếp tục gửi bản tuyên bố này đến các đại sứ quán khác.

Cũng theo blogger này, đại diện của đại sứ quán Thụy Điển đã nhắc đến những hợp tác giữa Thụy Điển và Việt Nam, trong đó có việc xây dựng các công trình nhà máy, bệnh viện và ngoài ra còn có cố vấn về tư pháp trong việc chống tham nhũng ở Việt Nam.

"Chúng tôi cũng giải thích rõ rằng ở Việt Nam, càng chống tham nhũng thì tham nhũng ngày càng tăng, không hề giảm," blogger này nói.

"Khi mà luật pháp Viêt Nam nếu mà không đứng độc lập được, vẫn phụ thuộc vào Đảng thì không thể có một hệ thống pháp luật minh bạch.

'Bất chấp khó khăn'

Trong một diễn biến liên quan, blogger Nguyễn Lân Thắng chiều 7/8 cũng vừa thông báo trên tài khoản mạng xã hội đã trao Tuyên bố 258 cho đại diện của Google tại Bangkok.

Trước đó, ông Thắng cùng một vài blogger khác cũng đã trao bản tuyên bố này cho hàng loạt các tổ chức, cơ quan theo dõi nhân quyền và tự do báo chí quốc tế tại đây.

Một vài người trong nhóm này đã bị an ninh sân bay tạm giữ và bị khám xét hành lý, sau đó được thả ra.

Blogger Nhân nói với BBC rằng các cá nhân đại diện đi trao bản tuyên bố của mạng lưới blogger Việt Nam đã "xác định trước sẽ bị gây khó khăn".

"Trước khi triển khai công việc để chuyển tuyên bố này, chúng tôi đã phải làm việc một cách bí mật. Để đến được trước cửa đại sứ quán thì cũng đã có rất nhiều sự ngăn cản của chính quyền, thế nhưng chúng tôi vẫn quyết tâm làm," ông nói.

Dù khó khăn thế nào thì chúng tôi cũng sẽ tìm cách chuyển những thông điệp của những blogger trong nước đến với công luận quốc tế và hy vọng tiếng nói của quốc tế có thể can thiệp một phần nào đó vào tình hình nhân quyền tại Việt Nam."


*

RFI - Mạng lưới Blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho Thụy Điển 

Nhóm blogger trao tuyên bố 258 cho sứ quán Thụy Điển ngày 07/08/2013. 
Trong ảnh, bà Phó đại sứ Thụy Điển Elenore Kanter (áo xanh), 
chị Nguyễn Thu Trang đứng giữa - @danlambao 

Trọng Thành (RFI) - Sáng nay, 07/08/2013, một số blogger, đại diện cho Mạng lưới Blogger Việt Nam, đã tới đại sứ quán Thụy Điển tại Hà Nội để trao Tuyên bố 258 về nhân quyền Việt Nam. Mặc dù, một số người bị nhân viên an ninh tìm cách ngăn chặn, nhưng vẫn có 5 blogger tới được nơi. 

Về cuộc gặp ngày hôm nay giữa các blogger Việt Nam và đại diện đại sứ quán Thụy Điển, RFI Việt ngữ đặt câu hỏi với blogger Nguyễn Thu Trang, một trong năm người có mặt trong cuộc gặp này.

Trao Tuyên bố 258 cho đại sứ quán Thụy Điển hôm nay, ngoài chị Nguyễn Thu Trang, còn có các blogger Nguyễn Đình HàNguyễn Văn ViênLê Hồng Phong và Nghiêm Ngọc Trai.

Chị Nguyễn Thu Trang, 19 tuổi, là sinh viên trường Đại học Lao động và Xã hội Hà Nội. Hồi cuối tháng trước, ít ngày sau khi Tuyên bố 258 ra mắt, chị Trang đã cùng tham gia vào nhóm các blogger trao Tuyên bố kể trên cho tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội.


                                        =================================

 Theo danluan.org/ : 

3/ Leon Aron - Mọi điều bạn tưởng bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô là sai lầm


Leon Aron, Foreign Policy
Trần Ngọc Cư dịch

(Và vì sao việc này trở nên quan trọng trong một thời đại cách mạng như hiện nay)

Goorbahcov và Elsin

Mọi cuộc cách mạng đều tạo ra kinh ngạc. Tuy vậy, cuộc Cách mạng Nga gần đây nhất phải được kể là một trong những kinh ngạc lớn nhất. Trong những năm trước 1991, gần như không một chuyên gia, học giả, viên chức chính quyền, hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy ra của Liên Xô, và kéo theo nó một chế độ độc tài độc đảng, một nền kinh tế do nhà nước làm chủ, và cả sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đối với đế quốc Liên Xô và Đông Âu. Với một ngoại lệ duy nhất, tất cả những nhà bất đồng chính kiến Xô viết cũng như chính những nhà cách mạng tương lai — nếu ta xét qua hồi ký của họ – cũng không tiên đoán được sự kiện này. Khi Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng Ba năm 1985, không một nhân vật đồng thời nào của ông dự kiến một cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến cách mạng. Mặc dù người ta không đồng ý nhau về tầm mức nghiêm trọng của những vấn đề nội tại trong chế độ Xô Viết, nhưng không ai coi những vấn đề này là đang đe dọa sinh mệnh của chế độ, chí ít trong tương lai gần.

Vậy, do đâu mà có sự thiển cận đều khắp lạ lùng đến thế? Việc các chuyên gia phương Tây không tiên liệu được sự sụp đổ của Liên Xô một phần là do sử quan xét lại (historical revisionism) — tạm gọi là khuynh hướng bài chủ nghĩa chống cộng (anti-anti-communism) — một khuynh hướng phóng đại sự ổn định và tính chính danh của chế độ Xô viết. Tuy nhiên, một số nhân vật khác vốn không được coi là mềm dẻo đối với chế độ cộng sản cũng không kém kinh ngạc trước sự cáo chung của chế độ này. Một trong những người thiết kế chiến lược Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh, ông George Kennan, viết rằng, trong khi nhìn lại toàn bộ “lịch sử các sự vụ quốc tế trong thời hiện đại”, ông nhận thấy rằng “thật khó nghĩ ra một biến cố nào lạ lùng, đáng kinh ngạc, và mới thoạt nhìn không thể giải thích nỗi, hơn sự tan biến đột ngột và toàn bộ…của đại cường mệnh danh kế tục nhau là Đế quốc Nga rồi đến Liên Xô”. Richard Pipes, có lẽ là sử gia Mỹ hàng đầu về nước Nga và cũng là một cố vấn của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, cho rằng cuộc cách mạng gần đây của Nga là “bất ngờ”. Một tuyển tập gồm các bài tiểu luận viết về sự cáo chung của Liên Xô trong một số báo đặc biệt năm 1993 của tạp chí bảo thủ National Interest (Lợi ích Quốc gia) có tựa đề là “Cái chết lạ lùng của chủ nghĩa Cộng sản Xô viết”.
Nếu có thể hiểu được dễ dàng hơn, thì sự thiếu phán đoán mang tính tập thể này có thể đã được an toàn xếp vào một hồ sơ trí tuệ gồm những điều kỳ lạ và phù phiếm của khoa học xã hội rồi bị lãng quên. Tuy nhiên, thậm chí ngày nay, với khoảng cách 20 năm, giả thuyết cho rằng Liên Xô vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong tình trạng lúc đó hay bất quá cuối cùng nó sẽ bắt đầu một cuộc suy tàn kéo dài khá lâu, có vẻ là một kết luận không kém phần hợp lý.
Thật vậy, vào năm 1985 Liên Xô gần như vẫn có đủ nguồn lực thiên nhiên và nhân sự của 10 năm về trước. Chắc chắn là, mức sống tại đây còn thấp hơn tại Đông Âu khá xa, nói chi đến phương Tây. Tình trạng thiếu hụt hàng hoá, hạn chế lương thực, những hàng người dài trước các quầy hàng, và nạn nghèo khổ khắc nghiệt diễn ra đều khắp xã hội. Nhưng Liên Xô đã từng trải qua nhiều đại họa to lớn hơn thế và đã có thể đối phó mà không hề mất một mảy may quyền kiểm soát của nhà nước đối với xã hội và nền kinh tế, lại càng không hề từ bỏ quyền lực này.
Không có một thước đo thành tích kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm họa đang lù lù xốc tới. Từ năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại so với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt được 1,9% một năm. Chính cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm khốc này còn kéo dài cho đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố kể từ thời Cách mạng Pháp được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng hoảng có thể đưa đến cách mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia tăng nhanh chóng, nạn thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989 — một con số mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay trở được (manageable).
Giá dầu lửa rơi cực nhanh, từ 66 đôla một thùng năm 1980 xuống 20 đôla một thùng năm 1986 (trong số 2000 giá cả) chắc chắn là một đòn nặng nề đánh vào tài chính Xô-viết. Tuy vậy, nếu điều chỉnh theo nạn lạm phát, thì vào năm 1985 giá dầu lửa trên thị trường thế giới vẫn cao hơn năm 1972, và chỉ thấp hơn toàn thập niên 1970 một phần ba mà thôi. Nhưng đồng thời, mức thu nhập của người dân Xô viết gia tăng hơn 2% vào năm 1985, và sau khi điều chỉnh lạm phát, đồng lương của họ còn tiếp tục gia tăng trong 5 năm liền cho đến hết năm 1990 ở mức độ trung bình trên 7% mỗi năm.
Vâng, tình trạng đình đốn kinh tế của Liên Xô là hiển nhiên và đáng lo ngại. Nhưng như giáo sư Đại học Wesleyan, ông Peter Rutland, đã chỉ rõ, “Dẫu sao, những chứng bệnh kinh niên của Liên Xô không nhất thiết đe dọa sinh mệnh của nước này”. Ngay cả nhà nghiên cứu hàng đầu về các nguyên nhân kinh tế của cuộc cách mạng này, ông Anders Aslund, cũng ghi nhận rằng từ năm 1985 đến năm 1987, tình hình “là không mảy may sôi động”.
Từ quan điểm của chính quyền, tình hình chính trị lúc bấy giờ thậm chí ít đáng lo ngại hơn trước. Sau 20 năm liên tục đàn áp đối lập chính trị, gần như tất cả những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng đã bị cầm tù, lưu đày (như trường hợp Andrei Sakharov từ năm 1980), buộc phải ra sống ở nước ngoài, hay chết trong các trại cải tạo và nhà giam.
Cũng gần như không có bất cứ một dấu hiệu nào khác báo trước một cuộc khủng hoảng tiền cách mạng (pre-revolutionary crisis), kể cả một nguyên nhân truyền thống thường được coi là có thể dẫn đến sự suy sụp của một quốc gia – đó là sức ép từ bên ngoài. Trái lại, thập niên trước đó được các học giả đánh giá đúng đắn là thời kỳ Liên Xô “đã thực hiện được tất cả những tham vọng quân sự và ngoại giao quan trọng”, như nhà sử học và ngoại giao Mỹ, ông Stephen Sestanovich, đã viết. Tất nhiên, lúc bấy giờ Afghanistan ngày càng cỏ vẻ là một cuộc chiến lâu dài, nhưng đối với một quân lực gồm 5 triệu binh sĩ như của Liên Xô, sự thiệt hại tại đó là không đáng kể. Thật vậy, mặc dù gánh nặng tài chính khổng lồ do việc duy trì một đế quốc về sau trở thành một vấn đề chính trong các cuộc tranh luận sau năm 1987, nhưng bản thân những chi phí cho cuộc chiến Afghanistan không làm cho quốc gia kiệt quệ: Được ước tính vào khoảng 4 đến 5 tỉ đôla vào năm 1985, đó là một phần không đáng kể trong tổng sản lượng nội địa (GDP) của Liên Xô.
Hoa Kỳ cũng không phải là một lực tác động cho cuộc cách mạng. “Học thuyết Reagan” bao gồm nỗ lực chống lại và, nếu có thể, đảo ngược những bước tiến của Liên Xô trong Thế giới Thứ ba quả có tạo được sức ép chung quanh đế quốc này, ở những nơi như Afghanistan, Angola, Nicaragua, và Ethiopia. Tuy nhiên, những khó khăn của Liên Xô ở đó cũng chẳng có gì nghiêm trọng để trở thành một nguy cơ cho chế độ.
Trong một màn giáo đầu cho một cuộc chạy đua vũ trang có tiềm năng gây ra nhiều tốn kém cho đối phương, Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược [hay lá chắn nguyên tử] do Reagan đưa ra thực sự có ý nghĩa nghiêm trọng – nhưng đề xuất này không hề báo hiệu một sự thất bại quân sự cho Liên Xô, vì Điện Cẩm Linh biết chắc rằng việc triển khai hữu hiệu hệ thống phòng thủ không gian của Mỹ cũng mất vài thập kỷ nữa mới thực hiện được. Tương tự như thế, mặc dù cuộc nổi dậy chống cộng sản bất bạo động của công nhân Ba Lan là một tình hình rất bức xúc cho giới lãnh đạo Xô viết, làm nổi bật sự mong manh của đế quốc của họ tại châu Âu, nhưng vào năm 1985 Phong trào Đoàn kết (Soliditary) tỏ ra đã kiệt lực. Liên Xô hình như thích nghi được với việc tung ra các “đợt bình định” đẩm máu cứ 12 năm một lần – Hungary năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Ba Lan năm 1980 — bất chấp dư luận thế giới.
Nói thế khác, đây là một Liên Xô đang ở trên đỉnh cao quyền lực và thanh thế toàn cầu của mình, theo quan điểm của chính nó lẫn quan điểm của thế giới còn lại. Sau này, sử gia Adam Ulam đã nhận xét “Chúng ta thường quên rằng vào năm 1985, không một chính phủ của một quốc gia quan trọng nào tỏ ra có quyền lực vững chắc và có đường lối chính sách rõ ràng như chính quyền Liên bang Sô viết”.
Hẵn nhiên, có nhiều lý do thuộc về cơ chế — kinh tế, chính trị, xã hội – cho biết tại sao Liên Xô phải sụp đổ như nó đã sụp đổ; tuy nhiên, những lý do này không thể giải thích đầy đủ biến cố này diễn ra như thế nào và diễn ra khi nào. Nghĩa là, làm sao trong một thời gian từ năm 1985 đến năm 1989, trong lúc không gặp phải những tình trạng tồi tệ gay gắt về kinh tế, chính trị, dân số, và các vấn đề cơ chế khác, mà nhà nước và hệ thống kinh tế Xô viết bỗng dưng bị một quần chúng đủ đông đảo coi là ô nhục, thiếu tính chính danh, và hết chịu nỗi để phải sụp đổ?
Gần như hầu hết mọi cuộc cách mạng hiện đại, cuộc cách mạng Nga gần đây nhất được khởi động bằng một tiến trình tự do hóa khá do dự “từ trên xuống” – và lý do căn bản của nó vượt quá nhu cầu sửa sai nền kinh tế hoặc làm cho môi trường quốc tế tốt đẹp hơn. Cái cốt lỏi trong sáng kiến của Gorbachev là rất lý tưởng, đó là điều không thể chối cãi: Ông muốn xây dựng một Liên Xô có đạo lý hơn.
Vì mặc dù chiêu bài đưa ra là cải thiện kinh tế, nhưng rõ ràng là Gorbachev và những người ủng hộ ông trước hết muốn sửa chữa những sai lầm đạo lý hơn là sai lầm kinh tế. Hầu hết những điều họ tuyên bố công khai trong những ngày đầu của chương trình tái cơ cấu (perestroika), bây giờ nhìn lại, có vẻ chỉ là một cách biểu lộ nỗi khổ tâm của họ về sự suy đồi tinh thần và những hệ quả xói mòn đạo lý của thời đại Xít-ta-lin. Đó là bước khởi đầu của một sự liều lĩnh đi tìm kiếm những câu trả lời cho các vấn nạn to lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại thường bắt đầu: Thế nào là một cuộc sống tốt đẹp, hợp với nhân phẩm? Cái gì tạo ra một trật tự kinh tế và xã hội công chính? Một nhà nước chính danh và đàng hoàng là như thế nào? Quan hệ của một nhà nước ấy với xã hội dân sự phải như thế nào?
“Một không khí đạo lý mới mẻ đang thành hình trên đất nước ta”, Gorbachev đã nói như thế trước Ủy ban Trung ương Đảng trong phiên họp tháng Giêng 1987, nơi ông tuyên bố rằng glasnost (chủ trương cởi mở) và tự do hóa sẽ làm nền tảng cho perestroika (chủ trương tái cơ cấu) xã hội Xô-viết của ông. “Việc thẩm định lại các giá trị và xét lại chúng một cách sáng tạo đang được tiến thành”. Sau này, khi nhắc lại cảm tưởng của ông rằng “chúng ta không thể tiếp tục như thế thêm nữa, và chúng ta phải triệt để thay đổi lối sống, dứt khoát với những sai trái trong quá khứ”, ông gọi đó là “lập trường đạo lý” của ông.
Trong một bài phỏng vấn vào năm 1989, “người cha đỡ đầu của glasnost”, ông Aleksandr Yakovlev, nhớ lại rằng, vào lúc trở về Liên Xô sau 10 năm làm đại sứ tại Canada, ông cảm thấy đã đến lúc người dân phải tuyên bố, “Đủ lắm rồi! Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo một đường lối mới. Chúng ta phải xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá khứ và tương lai của chúng ta…Một sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta không thể tiếp tục sống như chúng ta đã sống trước đây — một cách nhục nhã, ngoài mức chịu đựng”.
Theo ý kiến của vị thủ tướng của Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov, “tình trạng đạo lý [nrastennoe] của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”:
[Chúng ta] ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra — từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.
Một thành viên khác trong nhóm thân cận sơ khởi và rất ít ỏi của Gorbachev gồm những nhân vật chủ trương tự do, Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng khổ tâm không kém vì tình trạng thiếu luật lệ và tham nhũng đều khắp. Ông nhớ lại đã nói với Gorbachev vào mùa đông 1984-1985: “Mọi thứ đã thối nát. Phải thay đổi thôi”.
Trở lại thập niên 1950, một vị tiền nhiệm của Gorbachev, ông Nikita Khrushchev, đã lần đầu thấy rõ sự mong manh của cái nền tảng của ngôi nhà mà Stalin đã xây lên trên sự khủng bố và dối trá. Nhưng thế hệ thứ năm này của giới lãnh đạo Xô-viết cảm thấy tin tưởng hơn về sức bật của chế độ. Gorbachev và các đồng chí của ông tỏ ra tin tưởng rằng những điều đúng cũng là những điều có thể quản lý được dễ dàng về mặt chính trị (politically manageable). Gorbachev tuyên bố rằng chủ trương dân chủ hóa “không phải là một khẩu hiệu nhưng là tinh túy của perestroika”. Nhiều năm về sau, ông đã trả lời phỏng vấn như sau:
Mô hình Xô-viết không những bị đánh bại trên bình diện kinh tế và xã hội; nó bị đánh bại ngay trên bình diện văn hóa. Xã hội chúng ta, nhân dân chúng ta, những người có học vấn nhất, những người có trí thức nhất, đã bác bỏ mô hình ấy trên bình diện văn hóa vì nó không tôn trọng con người, nó đàn áp con người về mặt tinh thần lẫn chính trị.
Sự thể những cải tổ đã đưa đến cuộc cách mạng năm 1989 phần lớn cũng phát xuất từ một nguyên nhân “lý tưởng” khác: bản thân Gorbachev rất ghét bạo động và, vì thế, ông cương quyết không sử dụng việc áp bức quần chúng (mass coercion) khi tầm mức của các biến chuyển bắt đầu vượt quá ý định ban đầu của ông. Triển khai các lực lượng đàn áp kiểu Xít-ta-lin cho dù để “duy trì chế độ” cũng sẽ là một hành động phản lại niềm tin tưởng son sắt nhất của ông. Một chứng nhân nhớ lại Gorbachev đã nói vào cuối thập niên 1980, “Chúng ta được dạy là chúng ta phải đấm bàn”, rồi ông nắm tay lại, minh họa cú đấm. Viên tổng bí thư phát biểu tiếp: “Nói chung, việc này có thể thực hiện. Nhưng chúng tôi không thích làm như vậy”.
Vai trò của tư duy và lý tưởng trong việc mang lại cuộc cách mạng Nga xuất hiện rõ nét hơn khi chúng ta nhìn vào những diễn biến bên ngoài Điện Cẩm Linh. Một ký giả Xô-viết hàng đầu và về sau trở thành một tiếng nói nhiệt tình đối với chủ trương glasnost, ông Aleksandr Bovin, đã viết vào năm 1988 rằng những lý tưởng của perestroika đã “chín muồi” giữa lúc nhân dân ngày càng “bức xúc” trước nạn tham nhũng, ăn cắp của công trắng trợn, trước những láo khoét, và những cản trở chặn đứng việc làm của người lương thiện. Những dự kiến “về một cuộc đổi thay có thực chất đang bàng bạc trong không gian”, một chứng nhân khác nhớ lại, và những người mang kỳ vọng này đã tạo nên một khối cử tri rõ nét (appreciable constituency) đang đòi hỏi những cải tổ triệt để. Thật vậy, những kỳ vọng đã đón chào Gorbachev khi ông lên cầm cầm quyền là rất mãnh liệt và ngày càng gia tăng đến độ chúng có thể định hình cho chính sách thực sự của ông. Đột nhiên, chính các tư duy đã trở nên một yếu tố có cấu trúc, có thực thể trong cuộc cách mạng đang diễn ra.
Theo cách nói của Yakovlev, cái uy tín của ý thức hệ chính thống, vốn ràng rịt toàn bộ hệ thống chính trị và kinh tế của chế độ Xô-viết “như những niền thép”, đang rã rệu nhanh chóng. Nhận thức mới đã giúp người dân thay đổi thái độ đối với chế độ và tạo ra “một chuyển biến trong hệ thống các giá trị”. Dần dần, tính chính đáng của các sắp xếp chính trị [cơ chế chính trị] bắt đầu bị chất vấn. Trong một trường hợp điển hình của “định lý Thomas” bất hủ mà [nhà xã hội học] Robert K. Merton xây dựng thành lý thuyết – “Nếu người ta tin rằng một tình thế là có thực, thì tình thế đó sẽ trở thành hiện thực trong hậu quả của nó”– sự suy đồi thực sự của nền kinh tế Xô-viết chỉ mang lại hậu quả nghiêm trọng sau khi và bởi vì có một chuyển biến cơ bản trong cách người dân cảm nhận và đánh giá thành tích của chế độ.
Viết cho một tạp chí Xô-viết năm 1987, một độc giả Nga gọi những gì ông chứng kiến chung quanh ông là một “sự dứt khoát triệt để trong ý thức của người dân”. Chúng ta biết độc giả này nhận xét đúng vì cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách mạng vĩ đại đầu tiên mà tiến trình của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc thăm dò dư luận quần chúng ngay từ đầu. Vào cuối năm 1989, cuộc thăm dò dư luận tiêu biểu đầu tiên đã cho thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có tính cạnh tranh và việc hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng Cộng sản Xô-viết – sau bốn thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc lập vẫn còn bất hợp pháp. Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm dò trong một vùng nước Nga đồng ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng phát triển nhanh hơn “nếu chính phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ý họ muốn”. Sáu tháng sau, một cuộc thăm dò trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một cuộc chuyển đổi nhanh chóng hay tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm một năm sau thì số người ủng hộ kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.
Những người đã gieo vào xã hội “chuyển biến ngoạn mục về ý thức” không ai khác hơn là những kẻ đã từng châm ngòi cho các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville nhận xét, những con người này “giúp tạo ra một ý thức chung về sự bất mãn như vậy, một công luận được kiên định như vậy, rồi hai yếu tố này … lại tạo ra những đòi hỏi hữu hiệu cho các chuyển biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn bộ việc giáo dục” trên cả nước trở thành “công tác của những người cầm bút”.
Tại Nga Xô cũng vậy. Những hàng người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám đông phải xếp hàng quanh một khu phố từ lúc 6 giờ sáng, vì lượng báo ra hàng ngày thường bán sạch chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ — và số người đặt mua ngày càng đông các báo nổi tiếng có chủ trương tự do đã chứng minh sức công phá của những nhà bình luận nổi tiếng thuộc khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ của Samuel Johnson, “những bậc thầy truyền giảng chân lý” (teachers of truth): kinh tế gia Mikolai Shmelyov; các triết gia chính trị như Igor Klyamkin và Alexandr Tsypko; các tiểu luận gia như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov, and Ales Adamovich; các ký giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và chí ít trên hai chục nhà văn nữa.
Đối với họ, việc phục sinh đạo lý là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những chỉ rà soát lại các hệ thống chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược các qui phạm xã hội (social norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên bình diện cá nhân: một sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga. Như Mikhail Antonov tuyên bố trong một tiểu luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề “Vậy thì việc gì đang đến với chúng ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy nhân dân – không phải để họ thoát khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ yếu để họ thoát khỏi chính mình, thoát khỏi các tiến trình phi luân đang giết chết những phẩm chất cao quí nhất của con người”. Cứu nhân dân bằng cách nào? Bằng cách làm cho tiến trình dân chủ hóa còn sơ sinh trở thành con đường định mệnh, không thể đảo ngược – không phải bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay đổi khí hậu. Và việc gì sẽ đảm bảo cho tình hình không thể đảo ngược này? Trên hết, đó là sự xuất hiện của con người tự do, một con người “không bị lây nhiễm trước các sự kiện lặp đi lặp lại của chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok, một tạp chí quan trọng thuộc chủ trương glasnost, đã viết vào tháng Hai năm 1989 rằng chỉ có “con người không có khả năng làm chỉ điểm cho công an, không có khả năng phản bội và láo khoét, bất luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới có thể cứu chúng ta khỏi sự xuất hiện trở lại của một nhà nước độc tài”.
Lối lý luận vòng vo này — để cứu nhân dân, người ta phải cứu lấy perestroika, nhưng người ta chỉ cứu được perestroika nếu có thể thay đổi đựợc con người “từ bên trong” — gần như không hề làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư duy về những vấn đề này gần như đã cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương perestroika và việc kéo người dân khỏi bãi sình lầy tinh thần là hai nỗ lực đan kết chặt chẽ, có lẽ không thể tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan trọng là phải đưa nhân dân trở về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô lệ”. “Đủ lắm rồi!” là một lời tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu thuyết bán rất chạy trong giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được đóng thành phim và được khán giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi những láo khoét, đủ lắm rồi tinh thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhác. Sau cùng, chúng ta phải nhớ rằng tất cả chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào của một đất nước tự hào!”
Nhìn kỹ vào những nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi tiếng rằng, các chế độ bị cách mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng hơn các chế độ trước đó. Tại sao? Vì, theo suy đoán của de Tocquevile, mặc dù người dân “có thể ít khổ sở hơn”, nhưng họ lại “cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn”.
Thông thường, Tocqueville có khuynh hướng bàn về những điều tối quan trọng. Từ Những Người cha lập quốc trong Cách mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins của Cách mạng Pháp và nhóm Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng này đã chiến đấu chủ yếu dưới một bóng cờ: phát huy nhân phẩm. Chính vì nỗ lực tìm kiếm nhân phẩm xuyên qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật đổ chính quyền trong tinh thần glasnost vẫn còn tồn tại – và sẽ còn tồn tại. Cũng như trước đây những trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm hãnh diện bên cạnh hình ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu tượng của cuộc mạng Nga gần đây, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập cũng hiên ngang làm biểu tượng cách mạng bên cạnh những hình ảnh các đám đông nổi dậy tại Quảng trường Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia], trên các đường phố của Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của Syria. Gác các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa chính trị qua một bên, các thông điệp và cảm thức mà những cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau.
Mohamed Bouazizi, một thanh niên bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy tại Tunisia khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đã tự tử “không phải vì anh ta thất nghiệp nhưng vì khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa phương] có trách nhiệm về vấn đề của anh thì bị đánh đập – cái chết này là để tố cáo chính phủ”, một người biểu tình tại Tunis đã nói với một nhà báo Mỹ như thế. Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông hô vang khẩu hiệu, “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!”. Tại Ai Cập, các đám đông đã “biểu lộ tinh thần tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đã đến lúc không còn biết sợ hãi nữa, không muốn để cho giới lãnh đạo của mình tiếp tục tướt đoạt tự do và chà đạp nhân phẩm”, cây viết chuyên đề của tờ New York Times, ông Thomas Friedman, đã tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu có mặt ở hiện trường], ông cũng có thể đã tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm 1991.
“Nhâm phẩm có ưu tiên hơn bánh mì!” là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế Tuy-ni-di đã gia tăng trong khoảng 2 và 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ liền trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu lửa ở mức cao, cũng đang phát triển kinh tế khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy. Cả hai trường hợp này nhắc nhở chúng ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không thể thay thế cho niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân. Nếu chúng ta không nhớ kỹ điều này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc — trước “các cuộc cách mạng màu” trong thế giới hậu-Xô viết, trước Mùa Xuân Á Rập, và không chóng thì chầy trước một biến động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng kinh ngạc trước cuộc cách mạng tại Nga Xô. “Thượng Đế đã ban cho chúng ta một ý thức mãnh liệt về nhân phẩm khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các quyền tự do và các quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay giả tưởng nào mà các chế độ độc tài "ổn định’ có thể mang lại”, tổng thống của nước Kyrgyzstan, ông Roza Otunbayeva, đã viết vào tháng Ba năm nay. “Thật là kỳ diệu khi người dân, nam, phụ, lão, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh hướng chính trị khác nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố ‘chúng tôi đã bưa lắm rồi’ (enough is enough)”.
Hẳn nhiên, động lực đạo lý tuyệt vời, sự tìm kiếm chân và thiện, chỉ là một điều kiện cần nhưng không đủ để tái tạo một đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ sức lật đổ chế độ cũ (ancien régime), nhưng không thể cùng một lúc khắc phục được nền văn hóa chính trị độc tài đã ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định chế dân chủ do những cuộc cách mạng có động cơ đạo lý có lẽ tỏ ra còn quá nông cạn, không thể giữ vững một nền dân chủ hữu hiệu trong một xã hội thiếu truyền thống quí giá là cơ sở hạ tầng biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có thể gây trở ngại to lớn cho việc thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập – đã thấy ở Nga. Sự phục sinh đạo lý ở Nga đã bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã tháo dỡ một đế quốc, nhưng cái di sản của não trạng đế quốc trong hằng triệu người Nga đã khiến họ dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa tân độc tài của Putin (neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề tuyên truyền to lớn như “sự bao vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga đứng dậy từ bước ngã quị”. Hơn thế nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) mà chủ nghĩa Xit-ta-lin gây ra chưa bao giờ được tìm hiểu đầy đủ và chưa bao giờ được thống hối, vì vậy đã làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lý, đúng như các người rao giảng glasnost từng mạnh mẽ cảnh báo.
Đó là lý do nước Nga ngày nay một lần nữa đang từng bước tiến tới một thời điểm perestroika khác. Mặc dù những đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và giá dầu lửa tăng cao hiện nay đã kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng có trong lịch sử cho hằng triệu người Nga, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của tầng lớp cai trị ở chóp bu, chế độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh thường dư luận đã tạo ra tình trạng bất mãn và yếm thế, một tình trạng đang bắt đầu lên tới (nếu không muốn nói đã thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên 1980.
Người ta chỉ cần đến Mát-xcơ-va vài ngày để tiếp xúc với giới trí thức hiện nay hay, tốt hơn nữa, liếc qua các trang nhật ký mạng (blogs) trên LiveJournal (Zhivoy Zhurnal), diễn đàn Internet nổi tiếng nhất của Nga, hay qua các website của những nhóm trí thức đối lập và độc lập hàng đầu, là thấy được rằng câu châm ngôn của thập niên 1980 – “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa!” đang trở thành tín điều một lần nữa. Lệnh truyền đạo lý của tinh thần tự do đang tái khẳng định chính nó, và hiện tượng này không chỉ diễn ra hạn hẹp trong các giới trí thức và những nhà hoạt động dân chủ. Tháng Hai năm nay, Viện Phát triển Đương đại (the Institute of Contemporary Development), một viện nghiên cứu chính sách tự do do Tổng thống Dmitry Medvedev làm chủ tịch, đã xuất bản một tài liệu có vẻ như là một chương trình vận động tranh cử tổng thống Nga năm 2012:
Trong quá khứ nước Nga cần tự do để sống [tốt đẹp hơn]; hiện nay nước Nga cần tự do để sống còn… Thách thức của thời đại chúng ta là làm sao để rà soát lại hệ thống giá trị, hun đúc một ý thức mới. Chúng ta không thể xây dựng một đất nước hiện đại với tư duy cũ…Đầu tư tốt đẹp nhất [mà nhà nước có thể dành cho con người] là Tự do và Nền Pháp trị (the Rule of Law). Và tôn trọng Phẩm giá của con người.
Chính cuộc tìm kiếm có tính cách trí thức và đạo lý này, một nỗ lực khôi phục niềm tự hào và tự trọng, bắt đầu bằng một cuộc duyệt xét đạo lý không nương nễ đối với quá khứ và hiện tại của đất nước, chỉ vỏn vẹn trong vài năm đã khoét hổng nhà nước Sô-viết đồ sộ, tước sạch tính chính danh của nó, và biến nó thành một chiếc vỏ bị thiêu rụi (burned-out shell) để rồi tan rã vào tháng Tám 1991. Câu chuyện về hành trình đạo lý và trí thức này là một câu chuyện hoàn toàn chiếm vị trí trung tâm về cuộc cách mạng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.
Nguồn: Foreign Policy, July/August 2011,
Trần Ngọc Cư dịch (Từ nghiencuulichsu.com)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét