Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

Tóm lại : " ...đảng CSVN là một đảng thổ tả ăn cướp, phản dân hại nước , ôm chân tụi Tàu khựa ! " (*)

1/ Duyệt lại sự thật lịch sử

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống - Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê. Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đã về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9, 1969.

Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập. Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động võ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
 
*********

Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đã đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho mình tư cách độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau.

Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lý để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản.

Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động võ trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên bình diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương:

- Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954)

- Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và 

- Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc.

Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đấu tranh bạo động võ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đã đấu tranh ôn hòa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng vì vậy họ đã tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn còn từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay vì 40 năm như trường hợp Việt Nam.

Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đã trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á.

Năm 1941, khi Thế Chiến II còn đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Hòa Lan đã hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc. 

Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xã, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu: 

Độc lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp.

Độc lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh. 

Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh. 

Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan. 

Như vậy lịch sử đã chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh võ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. Vì đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hãn đã hy sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền.

CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP

Ads by HQ-Video-Pro-1.6cAd Options
Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập vì quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đã chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đã chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia.

Tại Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng (lãnh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một ngôn ngữ).

Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã chính thức đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332).

Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 ký kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại.

Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và hòa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng ký. Riêng Hiệp Định Élysée đã được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay ký, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hòan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đã bị Hiệp Định Élysée bãi bỏ. 

Cũng trong năm l949 Trung Cộng đã dùng võ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Trìêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản. 

Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiã vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ. 

Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu võ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia.

Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu võ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia. 

Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp đã trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đã trình bầy, Pháp đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đã chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam.

CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Năm l975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. Vì theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đã được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-l949. 

Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống). 

Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này và đã phá hoại nền thống nhất này. Vì Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu võ trang và đã ký Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu võ trang để thôn tính Miền Nam năm l975. 

Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đã thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.

Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đã đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, vì yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đã hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lãnh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh võ trang, Hồ Chí Minh đã cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh võ trang, Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước!

Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào.

CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU

Muốn có cái nhìn khách quan và trung thực, chúng ta hãy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á Châu. 

Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đã đấu tranh võ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. 

Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu.

1946: Phi Luật Tân độc lập

Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm tình với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi. 

Ads by HQ-Video-Pro-1.6cAd Options
Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lãnh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái Bình Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm vì lý do chiến cuộc).

Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái Bình Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động tình báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation).

1946: Syrie và Liban độc lập.

Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, thì Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người.

Tại Syrie và Liban, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đã từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy trì thuộc địa còn có Đảng Xã Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa.

Năm 1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xã Hội Léon Blum ký hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline).

1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập. 

Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đã thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể.

Tại Ấn Độ, 3 nhà lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đã từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy trì thuộc địa, còn có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xã Hội Pháp. 

Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lãnh tụ Đảng Bảo Thủ.

Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. 

Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xã hội chậm tiến, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Ấn Độ đã giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đã phải hy sinh xương máu ròng rã trong 40 năm.

1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập.

Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lãnh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San tình nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...

Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập. 

Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đã giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh.

1949: Nam Dương độc lập.

Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Hòa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động võ trang thì Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đã từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học. 

Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Hòa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan. 

Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu võ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đã được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải hòa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Hòa Lan. Hội Nghị Bàn Tròn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2)

STALINE THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT

Như vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu.

Trong khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh ý thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ.

Các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á.

Riêng tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương.

Cũng vì vậy hồi tháng 12-1945 De Gaulle đã mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới Paris thương nghị. 

Nhiều tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle đã chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ ký một hiệp ước công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên vì lúc này Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp còn phải ở lại Việt Nam một thời gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam, đồng thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp.

Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đã tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là vì "hết xăng". Đây là một nguyên nhân hy hữu vì không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa đủ săng nhớt.

Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho Pháp. Vì nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia giành tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam thì chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không còn được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng còn ai muốn gia nhập Đảng Cộng Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ có 5 ngàn đảng viên). 

Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp đã thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De Gaulle đã có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng vì vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Rồi thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam) để làm bình phong thương nghị với Pháp.

Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De Gaulle đã thỏa thuận với Duy Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm. 

Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đã đến nhà riêng của Moutet để xin ký Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng Xã Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp). 

Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đã từ nhiệm, các nhà lãnh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương. 

Theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến tranh võ trang ngày 19-12-1946. 

Bằng hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đã vi phạm Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet.

Do đó, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất.

Ngoài ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập.

Như vậy từ năm 1947 Pháp đã quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt Nam không được gia nhập Liên Hiệp Quốc vì gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử quyền phủ quyết.) 

Năm 1947, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, thì ông ta đã phải ngưng chiến cho phe quốc gia có điều kiện hòa đàm và ký kết với Pháp một hiệp ước để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam. 

Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh võ trang để phá vỡ mọi giải pháp độc lập quốc gia.

Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành với Quyết Nghị của các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947.

Tháng 12, 1947, Cao Ủy Bollaert ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 ký kết giữa Cao Ủy Bollaert và Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết. 

Và tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh Tổng Thống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp.

Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất. 

Ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée về khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do Chính Phủ Bảo Đại đại diện. 

Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. Vì các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v.v... cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh.

Về mặt an ninh quốc phòng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp thì quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương.

Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong tục tập quán, biết rõ dân tình nước ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương mãi, xây cất cầu cống, đường sá, sông ngòi, hải cảng, cồn đảo... Ngoài ra họ còn có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị.

Về mặt phát triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các nông, lâm, khoáng sản... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam.

Nhưng rồi Đảng Cộng Sản đã đưa dân tộc ta vào con đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989).

Đại hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc.

Đại bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Cộng Sản 

HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH HÒA BÌNH PARIS.

Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Genève ngày 20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice Agreement).

Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có tác dụng “đình chiến và ấn định một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh.

Vì là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ ký của 2 tướng lãnh: Đại diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu (là người đã ký cả 3 Hiệp Định Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện.

Vì không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không ký vào Hiệp Định Genève.

Quốc gia Việt Nam cũng không ký. Chiếu Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng. Vì Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuý quân sự, nên về phía Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ ký của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil là đủ.

Ngày hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước. Vì đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ý Định (declaration d’intention) không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lý (Cũng như các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945).

Vả lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc GiaViệt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đã ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam. 

Hiệp Định Đình Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuý quân sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như trường hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải pháp chính trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước từ tổng tuyển cử năm 1956. 

Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 (Paris Peace Agreement) trái lại, là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về mặt nghi thức nó mang chữ ký của các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết ước:

Trần Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa 
Williams Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ 
Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Nguyễn Thị Bình, Ngoại Trưởng Chính Phủ Lâm Thời “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.

Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris quy định rằng: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” [theo nguyên tắc nhất trí] 

Vậy mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ ký của họ còn chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh võ trang để thôn tính Miền Nam. Hội trường đã nhường chỗ cho chiến trường, thương nghị thỏa thuận đã bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp hòa bình đã bị chiến tranh võ trang xoá bỏ.

Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Hòa Bình Paris. 

Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi luật rừng xanh.

KẾT LUẬN

Nói tóm lại:

1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đã phạm sai lầm chiến lược khi theo Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh xương máu ròng rã 40 năm.

2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 vì Việt Nam đã được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée. 

3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 vì Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.

4) Trên bình diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa.

5) Vì vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống để độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xã hội được thực thi.
______________________________________
Chú thích:
(1) Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương Việt Miên Lào là những quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332). Declaration on decolonization. Date in parentheses shows the year of independence: Indochina comprising Cambodia, Laos and Vietnam (1947).

(2) Hai quốc gia còn lại Mã Lai và Tân Gia Ba trong Liên Bang Mã Lai Á. Năm 1948 Đảng CS Mã Lai lập chiến khu chiến đấu võ trang. Để dẹp nội loạn, chính phủ Anh ban hành tình trạng thiết quân luật. Từ năm 1952 Đảng Quốc Gia Mã Lai đưa ra chủ trương “độc lập do hợp tác chủng tộc” kết hợp các sắc dân Mã Lai, Trung Hoa và Ấn Hồi. Luật Sư Abdul Rahman đã từng làm phó chưởng lý tại Anh. Abdul Razah phục vụ trong quân đội Hoàng Gia Anh thời Thế Chiến Hai. Sau 5 năm tự trị, Mã Lai được độc lập năm 1957. 

Năm 1965 đến lượt Tân Gia Ba được giải phóng do chủ trương ‘’độc lập nhờ liên lập’’ (với Mã Lai trong Liên Bang Mã Lai Á). Luật Sư Lý Quang Diệu đã từng gia nhập Luật Sư Đoàn Luân Đôn và Đảng Lao Động Anh trong thời gian du học. In 1963, Singapore joined The Federation of Malaya. Singapore became independent in 1965.
 
 
                                         ====================================
 
 

Xin cám ơn Hành trình đến Tự Do

                        Trang Babui ( Danlambaovn)
 
 
                 ================================================
 

2/ Eo ôi :  "Bảo kiếm r"... Marx-Lenin  !!!  (*)

 


Lê Nam Khoa (Danlambao) - Trên trang nhà Tiếng nói Việt... cộng có một anh bút nô chém gió một bải với bài viết “Bảo kiếm” Marx-Lenin giúp Đảng giành thắng lợi huy hoàng. Anh này mở đầu bài viết với thanh kiếm “Thuận Thiên” của vua Lê Lợi chém Tàu để nói ăn theo về “bảo kiếm” của tên râu xồm bên Đức và tên trọc bên Nga và nhờ “thanh gươm báu” đó mà “thuận lòng người”. Anh bút nô này nhắm mắt tung hô nên trông gà hóa cuốc từ cái búa đập bể đầu và lưỡi liềm cắt cổ thành bảo kiếm mác và lê.

Có điều là sau khi giải thích chứng minh đảng cộng sản Hồ Tập Chương từ bên Phúc Kiến về cướp chính quyền, cướp quyền lãnh đạo ra sao thì anh bút nô túm lại lịch sử tuốt gươm của đảng như sau:

“Vừa chào đời, Đảng đã tuốt gươm xông ra trận tiền với cao trào Xô viết Nghệ-Tĩnh long trời lở đất năm 1930. Kế đó là liên tiếp các dấu son trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, gắn chặt với vai trò lãnh đạo của Đảng: Cao trào dân chủ 1936-1939, Cách mạng tháng Tám 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không 1972, Hiệp định Paris 1973, Đại thắng Mùa Xuân 1975, Chiến thắng bè lũ diệt chủng 1979 (giải cứu nhân dân Campuchia), Công cuộc Đổi mới 1986...”

Bảo kiếm mác lê đụng tên nào chém tên đó chỉ trừ... thằng Tàu ! Đúng là bảo kiếm của đảng cộng có khác với thanh kiếm “Thuận Thiên” của vua Lê Lợi. Nếu phải đặt tên cho cặp búa liềm này là kiếm thì tên của nó phải là “Thuận Hán Nô”. 

Nhưng nếu cứ đem bảo kiếm mác lê mà nơi sản sinh ra 2 tên râu xồm - đầu trọc đã quăng vào thùng rác để chém gió cho các thời giết giết nữa đi thì còn hiểu được. Tên bút nô của đài Tiếng nói Việt cộng còn hung hăng rằng: 

“Học thuyết Marx-Lenin được xây dựng vững vàng trên nền tảng logic hết sức chắc chắn của phép biện chứng duy vật (ra đời từ sự kết hợp có tính nhảy vọt giữa phép biện chứng đỉnh cao của Hegel với quan điểm duy vật quyết liệt của Feurbach), và trên cơ sở khái quát hóa các thành tựu của khoa học tự nhiên. Vì vậy nếu ai đó muốn phỉ nhổ (mà không suy nghĩ) vào học thuyết khoa học này thì tức là họ đã chà đạp lên cả văn minh phương Tây ngàn năm, lên các danh nhân nêu trên.” 

Để từ đó:

“Vấn đề bây giờ không phải là gác học thuyết Marx-Lenin sang một bên, mà là phải học tập nghiêm túc để hiểu thực chất của lý luận đó và phát triển sáng tạo nó trong tình hình mới.”

và :

“Trong công cuộc chỉnh đốn Đảng sắp tới, mỗi đảng viên cần nắm vững nắm chắc vũ khí Marx-Lenin để gột bỏ tư tưởng vị kỷ trong mỗi cá nhân và diệt trừ không chỉ chủ nghĩa cơ hội chính trị mà còn cả các ung nhọt tham nhũng, quan liêu, đặc quyền đặc lợi, vì một xã hội lành mạnh, dân chủ, và văn minh”.

Kiểu này thì... chết mẹ dân tộc Việt Nam !!!
 
Bài viết dài dòng, nhiều chỗ cắt dán những khuôn sáo cũ xì quen thuộc của tuyên giáo đảng. Bạn nào bị cái chứng của Bác Hù (đến buồn đi ỉ không không... ra) thì vào lăng đọc tại đây:
 
 
(*) Long Cu - Hanoi 
 
 
                                         ================================
 
 

3/ Còn đảng cộng sản thì không còn mình

Tú Kép (Danlambao) - Nhân ngày thành lập đảng côn đồ cộng sản năm nay, một tờ báo côn an trong nước ra ngày 31-1-2015 đã chạy một bài báo với tựa đề chữ lớn “Chỉ biết còn đảng thì còn mình”, được Dân Làm Báo copy lại như sau:
 

“Chỉ biết còn đảng thì còn mình” là nội dung tuyên truyền chẳng mới mẻ gì, được côn đồ côn an hâm đi hâm lại nhiều lần như là khẩu hiệu chiến lược sống còn của côn đồ côn an, bởi vì một lý lẽ thật đơn giản như đang giỡn, vì còn đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) thì còn đàn áp, bóc lột, bất công, bạo hành, tù đày. Do vậy, CSVN mới còn cần côn đồ côn an, vì tụi nầy là công cụ “bạo lực cách mạng” để đảng CSVN đàn áp dân chúng. 

Đảng CSVN được ví như cái ghế ba cẳng: một cẳng là quân đội, một cẳng là côn an và một cẳng là thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Thanh niên CSHCM là tổ chức tình báo “vi mô”, tức phạm vi nhỏ, hay tình báo địa phương trá hình, rình mò từ trong nhà ra ngoài phố, làm ăng-ten cho đảng, đánh hơi ở đâu có tin tức gì mới lạ thì báo cáo cho đảng ngay tức khắc. Nhiều em bé ngây thơ, không biết việc mình làm có hại cho gia đình, cứ “thật thà khai báo” chuyện gia đình cho lãnh đạo đoàn TNCSHCM. Thế là tai họa gia đình xảy ra. 

Quân đội do đám chính ủy chỉ huy. Quân đội nhân rân CSVN tự hào là đã từng chiến thắng hai đế quốc sừng sỏ Pháp và Mỹ, nay bị hớp hồn trước đám âm binh chính ủy do đảng CSVN thống lãnh. Tướng lãnh, sĩ quan đều xếp ve, nằm im dưới quyền điều khiển phù phép của đám chính ủy là những đảng viên CS. Giống như đàn cừu hay đàn dê khiếp vía trước đàn chó săn giữ trật tự cho chủ. Các tướng lãnh nòng cốt của quân đội nhân rân lại mới được dẫn qua Trung Cộng cấy sinh tử phù từ 16 đến 18-10-2014. Về lại nước, tên đại tướng bộ trưởng Quốc phòng, đã phát ngôn ngày 29-12-2014 một câu nghe mà thối lổ nhĩ, thật là nhảm nhí, “xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc”. Đại tướng bộ trưởng Quốc phòng, tổng tư lệnh quân đội mà chủ bại như thế, sợ sệt như thế, thì còn gì là oai phong quân đội. 

Côn đồ côn an là bộ máy trấn áp hữu hiệu của đảng CSVN. Đảng CSVN càng đàn áp, càng bóc lột, càng bất công, càng bán nước, và dân chúng càng kêu ca, càng phản đối, thì côn đồ côn an CS càng có nhiều “job” để làm. Vì vậy chế độ CS đàn áp bóc lột bất công nhiều chừng nào thì côn đồ côn an nhiều chừng đó. Chưa có bộ máy cầm quyền nào trên thế giới mà côn an đông đến thế so với tỷ lệ dân số như ở Việt Nam cộng sản. 

Hãy thử nhìn vào mỗi phường, xã, cứ khoảng 10 gia đình (CS gọi là hộ dân) thì có 1 côn an khu vực. Mỗi phường, xã có từ vài chục đến hàng trăm côn an, lục lạo, rình mò, vào tận bếp của nhà dân, vừa ngửi mùi phản động, vừa để dòm ngó xem có gì để cướp khéo không? Cướp khéo bằng nhiều trò ảo thuật. Thật thà thì xin, khôn ngoan thì mượn, ngoại giao thì khen, rồi nhờ mua giùm nhưng không trả tiền. 

Chưa có một tổ chức côn an của một nước nào trên thế giới nhiều loại côn an đến thế. Côn an chìm, côn an nổi, côn an khu vực, côn an giao thông, côn an văn hóa, côn an tôn giáo, côn an bảo vệ chính trị, côn an kinh tế, côn an phản gián, thôi thì đủ thứ côn an… Và có một loại côn an lạ lùng là côn an bảo vệ những gia đình có thân nhân ở nước ngoài, theo dõi cả người ngoài nước. 

Ở mỗi trường trung hay tiểu học (mà CS gọi là trường cấp 1, cấp 2, cấp 3), và cả trường đại học, luôn luôn có một côn an bảo vệ văn hóa theo dõi. Tên côn an nầy đứng đầu một hệ thống mật báo viên là những học sinh trong trường, thuộc đoàn thanh niên CSHCM. Bất cứ trường nào có gì động tĩnh là côn ao biết liền và báo cáo ngay, nhất là ngày nay, hệ thống cell phone rất nhạy bén. Cũng thế, tại các chùa hay nhà thờ, đều có côn an bảo vệ tôn giáo, cầm đầu là mấy tên giáo sĩ quốc doanh, báo cáo đầy đủ tình hình sinh hoạt trong chốn thờ phượng tôn nghiêm. Quý vị đi chùa hay nhà thờ đều phải cẩn thận với loại côn an tôn giáo. Dại dột mà tâm sự là bị tù ngay. 

Vì vậy, câu châm ngôn “chỉ biết còn đảng thì còn mình” hoàn toàn đúng với lũ côn đồ côn an CSVN. Tuy nhiên, khổ nỗi, người dân Việt Nam cảm thấy câu nầy chẳng hạp lổ nhĩ tý nào. Trật lất. Người dân Việt Nam hoàn toàn nghĩ khác. Thầm tính sổ cuộc đời mình, người Việt Nam thấy từ khi có đảng CSVN thì mình chẳng còn chi cả. Chẳng có quyền làm người (nhân quyền), chẳng có quyền làm dân (dân quyền), cũng chẳng có tý mẹ gì thứ quyền gì bỏ túi làm thuốc chơi, ngoài cái quyền cúi đầu vâng lệnh đảng CSVN, tung hê đảng CSVN. 

Nầy nhá! Trước đây, nhà nước CSVN thi hành chính sách kinh tế chỉ huy, ngăn sông cấm chợ. Ở nông thôn thì lùa tất vào hợp tác xã nông nghiệp, đánh kẻng ra đồng làm việc tính điểm, gọi là “lúa điểm”, tức “liếm đủa”, chứ có cóc gì đâu mà ăn. Ở thành thị thì nhà nước đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, tiểu thương, thi hành chủ trương “Công Tư Hợp Doanh”, mà dân chúng diễn dịch lại là “Của Tôi Họ Dành”. Nhà nước, đảng viên, cán bộ dành hết, cơ cấu hết. Đó là nói chữ cho vui chứ thật ra nhà nước cướp hết. Cướp nhà, cướp xưởng, cướp máy, cướp xe, cướp tài khoản. Rồi nhà nước bao cấp, ban phát lợi lộc xã hội theo cấp bậc trong đảng. Đi mua hàng theo kiểu “xã hội chủ nghĩa” là “xếp hàng cả ngày”. 

Đến khi dân đói quá, không có tiền có của hối lộ đảng, đảng cũng đói, nên mở he hé cho kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trời đất quỷ thần ơi! Định hướng xã hội chủ nghĩa là cái quái gì, ai hiểu nổi? Ngay cả tổng bí thư đảng CSVN cũng không hiểu nỗi. Không ai biết thằng cha nào nghĩ ra chữ nghĩa thật hoa mỹ, định hướng xã hội chủ nghĩa, cho dân chúng ăn bánh vẽ. Dựa vào định hướng nầy, đảng viên cán bộ càng ngày càng vẽ với, càng tham nhũng tợn. Dân oan khắp nước kêu gào long trời lỡ đất mà chẳng có ai xét xử, vì không lẽ chúng tự xét xử chúng. Chúng tự xét xử chúng, diệt tham nhũng đi, còn ai là cộng sản nữa. Ủy ban bài trừ tham nhũng là trò xiếc mua vui mà thôi. 

Đó là ở thành thị, còn ở nhà quê thì dân chúng khổ cực không bút nào tả được. Xem hình ảnh những trường học trống trơn, học trò qua sông phải đu giây như tạc dzăng trên rừng xanh, hoặc qua các cầu khỉ lắt lẻo rất dễ rớt tõm xuống sông, có em phải chui vào bao ny lông kéo qua sông, trông thật tội nghiệp. 

Đó là vài hàng phát thảo vắn tắt đời sống kinh tế. Còn về chính trị, thì điều 4 hiến pháp 1992 định rằng đảng CSVN lãnh đạo toàn dân, ngổi chễm chệ trên đầu dân, mà chẳng ai bầu cho cái đảng thổ tả nầy cả. Nghe dân kêu ca quá, vừa rồi, đảng CSVN quăng ra một miếng da lừa cho dân gặm. Dân đâu có ngu mà gặm. Chỉ có mấy bác trí thức trí ngủ bu vào bàn loạn, đề nghị bỏ điều 4 nầy. Đúng là vớ vẩn. 

Đây là kịch bản khôi hài đen của CSVN vì CSVN quá có kinh nghiệm về việc nầy. Điều 4 hiến pháp 1992 của VNCS sao chép lại điều 6 hiến pháp 1980 của Liên Xô. Ở Liên Xô cũng có thời nổi lên xôn xao dư luận đòi bỏ điều 6 nây. Nhưng nếu bỏ điều 6 thì còn gì là quyền lực của đảng CSLX, nên lãnh đạo CSLX nhất quyết không chịu bỏ. Bây giờ ở VN, các đảng viên CSVN dại gì bỏ điều 4 nầy, vì nếu bỏ điều 4 nầy thì đảng viên chỉ đi ăn mày chứ biết làm gì mà sống, mà ăn trên ngồi trước thiên hạ. 

Hơn nữa, chẳng những điều 4 hiến pháp, mà tất cả những luật lệ của Việt Nam cộng sản hiện nay đều bàng bạc không khí điều 4 hiến pháp. Luật lệ nào ở Việt Nam bây giờ cũng để bào vệ đảng, mà bảo vệ đảng nghĩa là một hình thức điều 4 hiến pháp. Nếu bỏ điều 4 thì cũng như không, vì các luật lệ khác còn khắt khe hơn điều 4 nữa. Xin hãy bỏ ảo vọng đi các bác trí thức trí ngủ ơi. Chế độ CS không bao giờ sửa đổi được, đừng có dại tham gia ý kiến ý cò, chỉ có vứt chế độ CS vào sọt rác là hay nhứt. 

Nếu không vứt vào sọt rác, nếu đảng CSVN vẫn còn đó, thì người dân Việt Nam chẳng còn gì cả. Từ năm 2009, sinh viên Lê Trung Thành đã báo động: "Các anh ơi! Các chị ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc." (đăng trên các website 13-03-2009.) Người dân Việt Nam chúng tôi chẳng có tý tự do nào cả. Đi chùa hay đi nhà thờ thì gặp giáo sĩ quốc doanh. Báo chí thì rặt cả phường bồi bút, chỉ còn một số liêm sỉ thì kẻ bị nghỉ việc, người bị bắt. Nhẹ nhứt là bị theo dõi, de dọa, bôi bẩn...

Còn chính trị thì nhiều chuyện vui nữa. Bầu cử thì đảng cử dân bầu. Người ra ứng cử phải do đảng CSVN cử ra, thông qua Mặt trận Tổ quốc. Cái mặt trận nầy là mặt trận phản quốc vì là cánh tay nối dài của cái đảng thổ tả phản quốc từ khi thành lập cho đến ngày nay. Mà mấy tên dân biểu bầu ra chỉ để làm bù nhìn gật đầu hợp thức hóa những luật lệ do đảng CSVN bày ra. 

Theo điều 4 hiến pháp, đảng lãnh đạo chế độ, nên lãnh đạo tuốt tuột, từ trung ương xuống địa phương. Năm năm đảng họp một lần. Nội bộ tranh giành, chia chác quyền lực. Tên nào cũng bặm trợn, gian ác, tham nhũng, bóc lột. Chỉ khổ người dân. Ỳ ạch đóng thuế để nuôi bộ máy cầm quyền cồng kềnh gồm đảng, chính quyền, rồi cái mặt trận phản quốc nữa. 

Không có gì thì dân chúng kêu oan. Dân chúng kêu oan biểu tình khắp nước thì bị bắt bớ đánh đập. Dân bị bóc lột, cướp nhà, cướp đất, hết đường sinh sống, đâm ra liều lĩnh, biểu tình dài dài. Tuy nhiên, dân oan, khiếu nại, kiện tụng, chống tham nhũng biểu tình, bị bắt rồi có cơ hội được thả ra. Ngược lại những người biểu tình bất bạo động vì đối kháng chính trị, chống Trung Cộng xâm lược, thì bị côn an CSVN đánh dập, bắt giam nặng nề, cô lập, bao vậy, cho chừa cái tật yêu nước chống ngoại xâm. 

Sinh viên Phương Uyên chỉ viết một câu ngắn “Tàu khựa cút đi”, mà bị đì cho đến giờ nầy còn bị đì, không được học hành gì cả. Còn anh chàng nhạc sĩ Việt Khang nhẹ nhàng hỏi: Xin hỏi anh là ai? / Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai? / Xin hỏi anh là ai? / Sao đánh tôi chẳng một chút nương tay? / Xin hỏi anh là ai? / Không cho tôi xuống đường để tỏ bày / Tình yêu quê hương này, dân tộc này đã quá nhiều đắng cay!/ Xin hỏi anh ở đâu? / Ngăn bước tôi chống giặc Tàu ngoại xâm / Xin hỏi anh ở đâu? / Sao mắng tôi bằng giọng nói dân tôi?...” Thế là Việt Khang vào ngồi nhà tù nhỏ gở khoảng 1.500 tờ lịch. 

Tỏ bày lòng yêu nước liền bị côn an CS bắt giam. Như thế, không khác gì nhà nước CSVN tịch thu lòng yêu nước của người dân. Dân chúng không còn gì, chỉ còn lòng yêu nước mà cũng bị tịch thu. Thế thì còn ai dại gì nuôi dưỡng, tỏ bày lòng yêu nước nữa. Vì vậy lòng yêu nước dần dần bị thui chột trong dân chúng. Dân chúng trở nên ù lỳ, vô cảm, lao vào cà-phê, rượu chè, cờ bạc, cá độ, trác táng. Những nhà nghiên cứu xã hội ưa trách cứ thanh niên trong nước ngày nay cà phê cà pháo, rượu chè bù khú cả ngày. Xin đừng trách họ mà hãy dẹp bỏ cái đảng CS và nhà nước CS thổ tả lưu manh thì tình trạng xã hội mới khá hơn được. 

Tình hình dân khí như thế, thì lấy gì mà bảo vệ độc lập dân tộc khi sơn hà nguy biến. Như thế, nếu còn đảng CSVN thì nguy cơ mất nước lồ lộ trước mắt. “Giờ đây / Việt Nam còn hay đã mất / Mà giặc Tàu, ngang tàng trên quê hương ta / Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội / Chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu...” (Việt Khang)

Những mô tả trên đây còn nhiều thiếu sót, chưa nói hết thực trạng xã hội Việt Nam, nhưng cũng đủ cho thấy còn đảng CSVN thì dân Việt Nam chẳng còn gì. Đó là chuyện ở trong nước. Còn chuyện bên ngoài thì thê thảm hơn nữa. 

Không cần trở lui quá khứ xa xôi làm chi, chỉ xin bắt đầu từ thế kỷ 21 trở đi. Đầu tiên, ngày 30-12-1999, hai ngày trước khi bước qua thế kỷ 21, hai bộ trưởng Ngoại giao Việt Cộng và Trung Cộng ký kết tại Hà Nội “Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc”, theo đó Việt cộng nhượng cho Trung Cộng 720 Km2 đất liền ở hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn; làm mất ải Nam Quan lịch sử và một phần thác bản Giốc. 

Xin mời độc giả tìm đọc các sách về địa lý và lịch sử xuất bản từ sau năm 2000, hầu như không có địa danh Nam Quan. Như thế, con cháu chúng ta sau nầy sẽ không biết có Nam Quan, và nếu có nghe nói đến Nam Quan thì không biết Nam Quan nằm ở đâu? Như thế là còn đảng CSVN thì Ải Nam Quan không còn là ải của mình. Mất mà con cháu về sau không biết. Đau thật. 

Một năm sau, ngày 25-12-2000, tại Bắc Kinh, đại diện hai nước lại ký kết “Hiệp ước phân định lãnh hải”, phân chia quyền lợi trên Vịnh Bắc Việt, làm mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển, tức khoảng hơn 8% diện tích Vịnh Bắc Việt. Từ đó, bản đồ Biển Đông của chúng ta không còn một số hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa, vì đã lọt vào tay Trung Cộng. Ngư dân Việt Nam ra biển Đông đánh cá liền bị tàu lạ đuổi chạy có cờ, nghĩa là với chế độ CSVN, mất biển mất đảo mà người dân không biết. Biển Đông không còn là biển của mình. Mất biển mà chính ngư dân không biết. Chán không? 

Rồi núi rừng và cao nguyên Bắc Việt, cùng núi rừng và cao nguyên Trung Việt (mà Việt cộng gọi là Tây nguyên) cho tụi Tàu khựa thuê, khai thác đủ mọi thứ trên đời, làm đồn điền, khai bô-xít, trở thành cứ địa riêng của Tàu khựa. Nhà cầm quyền Việt cộng không được quyền kiểm soát. Biết đâu đó là những căn cứ quân sự của Trung Cộng khi có biến cố gì xảy ra. Như thế còn đảng csvn, núi và cao nguyên cũng không còn là của mình. Mất mà dân không biết. 

Tóm lại, với côn đồ côn an, “chỉ biết còn đảng thì còn mình”. Tuy nhiên, côn đồ côn an chỉ là thiểu số tay chân của đảng CSVN, một đảng thổ tả ăn cướp, phản dân hại nước. Trong khi đó, với đại đó số dân chúng Việt Nam còn lại, còn đảng CSVN thì dân chúng mất hết, mất dân quyền, mất nhân quyền, mất tự do, kể cả những tự do căn bản, và nhất là mất nước. 

Vậy thì câu kết luận thật rõ ràng: “còn đảng csvn thì không còn mình”. Bởi vì khi nước đã mất, thì mình làm sao còn được! Phải không bà con? 
 
 
                              ====================================
 

4/ Muốn giảm nghèo cho dân tộc thiểu số thì:

Bạn đọc Danlambao - Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc về phương hướng nhiệm vụ năm 2015 cho công tác giảm nghèo, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chưng diện không thua gì model, tài tử siêu sao và chỉ đạo: Tập trung giảm nghèo ở đồng bào dân tộc thiểu số; gắn giảm nghèo với ưu đãi cho doanh nghiệp tạo ra việc làm ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn... là những gợi mở được đặt ra.
 
 
Dân nghèo thuộc dân tộc đa số xin đề nghị ngày bước đầu của sự nghiệp giảm nghèo dưới sự lãnh đạo vinh quang đi hoài không thấy XHCN của đảng: đuổi ngay tên đồng chí đồng rận của các ông là Giàng Seo Phử đang ngồi ghế Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, cho nó đi... học tập cải tạo để giảm cân và nhìn cho giống người. Nhìn bản mặt tên này là biết ngay tại sao dân tộc người thiểu số nghèo mạt rệp !!!

Ngoài ra thì... không biết góp ý gì thêm để giảm nghèo cho những người dân khốn khổ này trừ khi... Đảng cộng sản đi chết đi !!!
 
 
.
Heo Nọc của người thiểu số - Phèo Kin Hi  (*)
 
 
 
  (*) Tiếng dân tộc  : đ ăn L..
 
           Long Cu - Hanoi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét